Văn Cao tên khai sinh là
Nguyễn Văn Cao (
15 tháng 11 năm
1923 –
10 tháng 7 năm
1995) là một
nhạc sĩ,
họa sĩ,
[1][2][3] nhà thơ,
[4][5][6] chiến sĩ ái quốc cách mạng
[7][8][9] người Việt Nam. Ông là tác giả của ca khúc
Tiến quân ca là
quốc ca chính thức của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời ông cũng là một trong những cây bút có sức ảnh hưởng lớn nhất của nền
Tân nhạc Việt Nam. Ông được giới chuyên môn và công chúng yêu nhạc đánh giá một cách rộng rãi là một trong ba
nhạc sĩ nổi bật nhất của nền
âm nhạc hiện đại Việt Nam trong
thế kỷ XX, cùng với
Phạm Duy và
Trịnh Công Sơn.Thuộc thế hệ
nhạc sĩ tiên phong, Văn Cao tham gia
nhóm Đồng Vọng, sáng tác các ca khúc trữ tình lãng mạn như
Bến xuân,
Suối mơ,
Thiên Thai,
Trương Chi,... nhanh chóng trở thành một trong những gương mặt tiên phong, nổi bật nhất của
trào lưu lãng mạn trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, đặc biệt là để lại những dấu ấn mang tính khai phá của ông trong tân nhạc Việt. Sau khi gia nhập
Việt Minh, Văn Cao chủ yếu viết về nhiều ca khúc mang âm hưởng hào hùng như
Tiến quân ca,
Trường ca Sông Lô,
Tiến về Hà Nội,... vì vậy ông đã trở thành một
nhạc sĩ tiêu biểu của dòng
nhạc kháng chiến.Sau sự kiện
Nhân văn – Giai phẩm, Văn Cao phải đi
học tập chính trị. Trừ
Tiến quân ca, tất cả những
ca khúc của ông cũng giống như các nhạc phẩm tiền chiến khác không được lưu hành ở
miền Bắc. Đến cuối
thập niên 1980, những nhạc phẩm này mới được biểu diễn trở lại.Được nhiều người xem là một hình mẫu thiên tài trong lịch sử văn nghệ Việt Nam,
[10][11] tài năng nghệ thuật đa dạng của Văn Cao đã bộc lộ ngay từ những năm còn
chưa thành niên. Không được đào tạo một cách thực sự chính quy, chuyên sâu cả về
âm nhạc và
hội họa, những thành tựu của Văn Cao trong hai lĩnh vực này có thể nói là bắt nguồn chủ yếu từ thiên năng nghệ thuật sẵn có của ông (nói theo lời của nhà nghiên cứu âm nhạc
Nguyễn Thụy Kha thì "Văn Cao là trời cho"). Ông được nhiều người xem là một hiện tượng hiếm có trong lịch sử phát triển của
văn hóa Việt Nam – ở nơi "dòng chảy" của sáng tạo cá nhân một con người có sự "hợp lưu" xuyên suốt của ba nhánh nhạc-họa-thơ trong gần như toàn bộ những sáng tác đa dạng của ông. Tổng kết về sự nghiệp văn nghệ của Văn Cao, nhiều người thường nhắc đến ông như một
nghệ sĩ đa tài, thích "lãng du" qua những "địa hạt" (lĩnh vực) nghệ thuật khác nhau. Dù không gắn bó liên tục quá lâu với một địa hạt nào trong số đó nhưng đối với những "miền" nào ông đã bước qua thì Văn Cao cũng đều lưu dấu không ít sáng tạo mang tính khai phá - mở lối dành cho những người đến sau ông. Như nhạc sĩ
Phạm Duy sinh thời đã nhiều lần xác nhận, sự nghiệp sáng tác của ông chịu một ảnh hưởng lớn từ những khai mở (về chuyên môn) và khích lệ (về tinh thần) từ Văn Cao, với tư cách là một người bạn văn nghệ tri kỷ của Phạm Duy. Dù những sáng tác của Văn Cao (đặc biệt là về âm nhạc và thơ ca) nói chung không dồi dào về số lượng nhưng mặt chất lượng chúng có ảnh hưởng mang tính định hướng và đặt nền cho sự phát triển của đời sống văn nghệ Việt Nam hiện đại. Một ví dụ là vai trò đặc biệt quan trọng của ông trong sự định hình của thể loại trường ca
trong cả âm nhạc và thơ ca Việt Nam thế kỷ 20. Cũng như những đóng góp về thơ ca và hội họa của Văn Cao vì nhiều lý do khác nhau mà ít được nhắc tới hơn rất nhiều so với những thành tựu trong âm nhạc của ông.Là một người tài hoa vào loại bậc nhất trong lịch sử văn nghệ Việt Nam, nhưng ngay từ thời còn niên thiếu ở
Hải Phòng ông đã là một người có thiên hướng khép kín, trầm tư, ít bộc lộ bản thân trước đám đông. Sau biến cố
Nhân văn – Giai phẩm cuối
thập niên 1950, ông lại càng có xu hướng sống khép kín và cô độc hơn mặc dù luôn có gia đình (đặc biệt là vợ ông) và một số bạn văn nghệ thân quen làm chỗ dựa cho đến những năm cuối đời. Khác với quan niệm truyền thống xưa nay về tài tử và giai nhân, cuộc đời của Văn Cao ít có những tiếp xúc mang tính lãng mạn với phái nữ vì như ông từng bộc bạch trong một cuốn
phim tài liệu về mình rằng, "Tôi là một cái người luôn luôn thất bại về tình yêu, cái thất bại này là bởi vì tôi là người không giỏi về cách tôi giao lưu với những người đàn bà, mà lại đối với những người đẹp tôi lại càng bối rối, tôi không bao giờ nói được với người ta, thì tôi bèn nói trong thơ thôi."Năm
1996, một năm sau khi mất, Văn Cao được tặng
Giải thưởng Hồ Chí Minh trong đợt trao giải đầu tiên. Ông cũng đã được
Nhà nước Việt Nam trao tặng
Huân chương Kháng chiến hạng nhất,
Huân chương Độc lập hạng ba,
Huân chương Độc lập hạng nhất,
Huân chương Hồ Chí Minh.
[12] Tên ông cũng được đặt cho nhiều con phố đẹp ở
Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh,
Hải Phòng,
Huế,
Đà Nẵng,
Nam Định,...