Trần Hưng Đạo (
chữ Hán: 陳興道;
1230[1] –
1300), còn được gọi là
Hưng Đạo Đại Vương (興道大王) hay
Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương (仁武興道大王) là một
nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia
Đại Việt thời
Trần. Ông được biết đến trong
lịch sử Việt Nam với việc chỉ huy quân đội đánh tan
hai cuộc xâm lược của quân Nguyên – Mông năm 1285 và năm 1288. Ông nguyên có tên khai sinh là
Trần Quốc Tuấn (陳國峻). Phần lớn tài liệu nghiên cứu lịch sử và cả dân gian thời sau thường dùng tên gọi vắn tắt là "Trần Hưng Đạo" thay cho cách gọi đầy đủ là "Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn", vốn bao gồm tước hiệu được sắc phong cho ông. Cần lưu ý rằng "Hưng Đạo đại vương" là
tước phong chính thức cao nhất do vua nhà Trần ban tặng cho Trần Quốc Tuấn lúc sinh thời do công lao kháng chiến bảo vệ đất nước, Tước "đại vương" có cấp bậc cao hơn tước "vương" dù cùng thuộc hàng
vương tước được ban cho những người thành viên hoàng tộc nhà Trần đương thời.Là con của An Sinh thân vương
Trần Liễu và là cháu nội của
Trần Thái Tổ, Trần Hưng Đạo có mối quan hệ mật thiết với hoàng tộc họ Trần và vua
Trần Nhân Tông gọi ông bằng bác. Năm
1257, ông được vua
Trần Thái Tông phong làm đại tướng chỉ huy các lực lượng ở biên giới đánh quân
Mông Cổ xâm lược. Sau đó, ông lui về thái ấp ở
Vạn Kiếp. Đến tháng 10 âm lịch năm
1283,
nhà Nguyên (sau khi Mông Cổ thống nhất Trung Hoa) đe dọa đánh Đại Việt lần hai, Hưng Đạo vương được Thượng hoàng
Trần Thánh Tông, và vua
Trần Nhân Tông (lần lượt là em họ và cháu họ ông) phong làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh
quân đội cả nước. Trên cương vị này, năm
1285, ông lãnh đạo quân sĩ chặn đứng đội quân xâm lược của Trấn Nam vương
Thoát Hoan. Sau những thất bại ban đầu, quân dân Việt dưới sự lãnh đạo của hai vua Trần, Thượng tướng Thái sư
Trần Quang Khải và Hưng Đạo vương phản công mạnh mẽ, phá tan quân Nguyên trong các trận
Hàm Tử,
Chương Dương,
Trường Yên,
Vạn Kiếp,... đánh đuổi hoàn toàn quân Nguyên khỏi biên giới.Năm
1288, quân Nguyên trở lại xâm lược
Đại Việt lần thứ ba. Khi tiếp tục được phong Quốc công tiết chế; Hưng Đạo vương khẳng định với vua
Trần Nhân Tông: "Năm nay đánh giặc nhàn". Ông đã áp dụng thành công chiến thuật của
Ngô Quyền, đánh bại hoàn toàn thủy quân nhà Nguyên do các tướng
Phàn Tiếp và
Ô Mã Nhi chỉ huy trong
trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng, buộc quân Nguyên lại phải rút về nước, và vĩnh viễn đặt tham vọng thôn tính phương Nam của họ.
Tháng 4 âm lịch năm
1289,
Trần Nhân Tông chính thức gia phong ông làm "Đại vương" dù chức quyền đứng đầu triều đình khi đó vẫn thuộc về Thượng tướng Thái sư Chiêu Minh Đại vương
Trần Quang Khải.Sau đó, ông lui về
Vạn Kiếp đến khi mất năm
1300. Trước lúc lâm chung, ông khuyên
Trần Anh Tông: "Phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc".
[2] Ngoài ra, ông còn để lại các tác phẩm kinh điển như
Hịch tướng sĩ,
Binh thư yếu lược và
Vạn Kiếp tông bí truyền thư đặt nền móng cho nghệ thuật quân sự Việt Nam kể từ thời Trần đến tận ngày nay.