Marcus Ulpius Nerva Traianus Augustus hay còn gọi là
Trajan (
18 tháng 9 năm
53 –
9 tháng 8 năm
117), là vị
Hoàng đế của
Đế quốc La Mã, trị vì từ năm
98 tới khi qua đời năm 117. Sinh ra trong một gia đình không có nguồn gốc quý tộc
[1] tại tỉnh
Hispania Baetica (nay là
Tây Ban Nha), ông được giáo dưỡng như một người lính và có tài điều binh khiển tướng.
[2] Traianus làm võ quan (cũng giống như cha ông năm xưa
[3]) dưới triều Hoàng đế
Domitianus, phục vụ trong
Quân đội La Mã dọc theo biên giới với người
German, và đánh dẹp cuộc nổi dậy của
Antonius Saturninus vào năm
89. Vào ngày
18 tháng 9 năm
96, sau khi Domiatianus chết,
Marcus Cocceius Nerva, một Nghị sĩ già nua và không có con nối dõi lên làm Hoàng đế, nhưng không được lòng ba quân. Chỉ sau một năm cầm quyền đầy biến loạn, lực lượng
Vệ binh Pháp quan (tức Praetorian Guard) uy hiếp, buộc Nerva phải nhận Traianus làm con nuôi và làm người kế vị. Sau hai năm trị quốc,
[3] Hoàng đế Nerva mất ngày
27 tháng 1 năm
98 và Traianus lên kế vị một cách yên ổn. Ông là vị Hoàng đế được lòng dân và
đồng tính luyến ái.
[4]Trên cương vị người quản lý dân sự, Hoàng đế Traianus được ghi nhớ bởi những chương trình xây dựng quy mô, làm biến đổi hẳn kinh thành
La Mã và để lại những công trình lưu truyền hậu thế như Cột trụ Traianus, Chợ Traianus và Quảng trường Traianus. Tuy nhiên, ông là một vị Hoàng đế có một đất nước bành trướng
[5] và gặt hái được những chiến thắng rực rỡ nhất. Vào năm
101, ông thân chinh điều động binh mã phạt Vương quốc
Dacia để chống nhau với vua
Decebalus, đánh tan nát quân Dacia trong trận đánh khốc liệt taị
Tapae lần thứ hai vào năm
102, và hoàn toàn chinh phục nước Dacia vào năm
106. Vào năm
107, Traianus thân hành kéo đại binh tiến xa hơn về phía Đông và đánh chiếm nước
Nabatea, thành lập tỉnh
Arabia Petraea dù rằng nó chẳng tồn tại được bao lâu. Sau đó ông trị quốc tương đối thái bình thịnh trị, và rồi ông lại rời khỏi kinh đô La Mã mà khởi binh lần cuối cùng vào năm
113 để chinh phạt Đế quốc
Parthia, tiến tới tận thành phố
Susa vào năm
116, bành trướng Đế quốc La Mã tới cực điểm. Ông là vị Hoàng đế La Mã duy nhất sánh ngang với
Alexandros Đại Đế trong việc hành binh tới
vịnh Ba Tư.
[6] Trong chiến dịch này, ông lâm bệnh, rồi tới cuối năm
117, trên chuyến hải hành trở về La Mã, bệnh của ông phát nặng và Hoàng đế Traianus mất ngày
9 tháng 8 tại thành phố
Selinus. Ông được Viện Nguyên lão La Mã tôn xưng là một vị thần, tro cốt được
chôn cất tại
Lăng Augustus. Ông được kế vị bởi người cháu họ là Hoàng đế
Hadrianus - người có tư tưởng đối lập với chính sách bành trướng liên miên của ông.
[7]Những vùng đất ngày nay là
Iraq,
Iran,
Ả Rập và cả miền Nam nước
Nga đều đã nằm dưới vó ngựa của vị Hoàng đế kiệt xuất Traianus và những chiến binh tinh nhuệ của ông.
[5] Với tư cách là một bậc đại anh quân vô cùng mạnh mẽ,
[6] tên tuổi của ông được lưu truyền trong lịch sử, mỗi hoàng đế sau ông được tôn xưng bởi Nghị viện bằng câu felicior Augusto, melior Traiano, nghĩa là "mong Hoàng thượng được may mắn hơn Augustus và tài giỏi hơn Traianus". Khác với nhiều vua chúa vốn được ca ngợi trong lịch sử nhân loại, tên tuổi và uy tín của ông không hề bị suy giảm trong suốt hơn 19 thế kỷ. Trong số những nhà thần học Thiên chúa giáo thời
Trung Cổ, ông được coi là một người
Đa thần giáo có đức hạnh, trong khi nhà sử học nước
Anh thứ thế kỷ XVIII là
Edward Gibbon truyền bá khái niệm
Ngũ hiền đế, Hoàng đế Traianus là một trong số đó.
[8] Cũng trong thế kỷ thứ XVIII, các danh sĩ thường lấy hình ảnh đáng kính của Traianus để tôn vinh các bậc anh quân của
trào lưu Khai sáng.
[9][10] Thời nay, danh thơm hiển hách của ông vẫn không hề mờ phai.
[11]