Thủy tinh, đôi khi trong dân gian còn được gọi là
kính hay
kiếng, là một chất rắn
vô định hình đồng nhất, có gốc
silicát, thường được pha trộn thêm các tạp chất để có tính chất theo ý muốn.
[1]Trong
vật lý học, các chất rắn vô định hình thông thường được sản xuất khi một chất lỏng đủ
độ nhớt bị làm lạnh rất nhanh, vì thế không có đủ
thời gian để các mắt lưới
tinh thể thông thường có thể tạo thành. Thủy tinh cũng được sản xuất như vậy từ gốc
silicát.
Silicát là
điôxít silic (SiO2) có trong dạng đa
tinh thể như
cát và cũng là thành phần hóa học của
thạch anh. Silicát có điểm nóng chảy khoảng 2.000 °C (3.632 °F), vì thế có hai hợp chất thông thường hay được bổ sung vào cát trong công nghệ nấu thủy tinh nhằm giảm nhiệt độ nóng chảy của nó xuống khoảng 1.000 °C. Một trong số đó là
sô đa (
cacbonat natri Na2CO3), hay
bồ tạt (tức
cacbonat kali K2CO3). Tuy nhiên, sô đa làm cho thủy tinh bị hòa tan trong nước - là điều người ta không mong muốn, vì thế người ta cho thêm
vôi sống (
ôxít canxi, CaO) là hợp chất bổ sung để phục hồi tính không hòa tan.Trong dạng thuần khiết và ở điều kiện bình thường, thủy tinh là một chất
trong suốt, tương đối
cứng, khó mài mòn, rất
trơ hóa học và không hoạt động xét về phương diện
sinh học, có thể tạo thành với bề mặt rất nhẵn và trơn. Tuy nhiên, thủy tinh rất dễ gãy hay vỡ thành các mảnh nhọn và sắc dưới tác dụng của lực hay nhiệt một cách đột ngột. Tính chất này có thể giảm nhẹ hay thay đổi bằng cách thêm một số chất bổ sung vào thành phần khi nấu thủy tinh hay
xử lý nhiệt.Thủy tinh được sử dụng rộng rãi trong xây đựng, làm đồ chứa (chai, lọ, cốc, chén, ly, tách v.v) hay vật liệu trang trí.