Sông Columbia (còn được biết đến là
Wimahl hay
sông Big (sông lớn) đối với người Mỹ bản địa nói tiếng
Chinook sống trên những khu vực thấp nhất gần dòng sông)
[4] là con sông lớn nhất vùng
Tây Bắc Thái Bình Dương của
Bắc Mỹ. Nó được đặt theo tên của
Columbia Rediviva, con tàu đầu tiên từ
thế giới phương tây được ghi nhận đã du hành lên dòng sông này.
[5] Dòng sông kéo dài từ
tỉnh bang British Columbia của
Canada đi qua
tiểu bang Washington của
Hoa Kỳ; hình thành phần lớn ranh giới giữa tiểu bang Washington và
Oregon trước khi đổ ra
Thái Bình Dương. Con sông dài 2.000 km (1.243
dặm Anh), và lưu vực nhận nước là 668.217 km² (258.000 dặm vuông).Tính theo lưu lượng nước, sông Columbia là con sông lớn nhất chảy vào Thái Bình Dương từ Bắc Mỹ và là con sông lớn thứ tư tại Hoa Kỳ. Dòng nước mạnh của sông và độ cao đổ xuống lớn trên một đoạn đường tương đối ngắn làm cho nó có tiềm năng rất lớn để sản xuất điện năng. Sông Columbia là con sông sản xuất
thủy điện lớn nhất Bắc Mỹ với
14 đập thủy điện tại
Hoa Kỳ và
Canada.Sông Columbia và các sông nhánh của nó là nơi sinh sống của vô số các loại
cá di cư giữa các sông nhánh nước ngọt nhỏ và
Thái Bình Dương. Các loài cá này - đặc biệt là những loài thuộc nhiều nhóm
cá hồi khác nhau - đã và đang là phần quan trọng của hệ sinh thái sông và kinh tế địa phương trong hàng ngàn năm qua.Việc khai thác dòng sông để phục vụ con người và một số trường hợp ô nhiễm công nghiệp đã rất nhiều lần đi ngược với việc bảo tồn hệ sinh thái kể từ khi người Mỹ và người châu Âu bắt đầu đến định cư trong khu vực này trong thế kỷ 18. Việc "lợi dụng dòng sông" như trong văn hóa bình dân của thế kỷ 20 thường diễn tả bao gồm việc nạo vét đáy sông cho tàu thuyền lớn lưu thông, sản xuất
năng lượng nguyên tử, nghiên cứu và chế tạo
vũ khí nguyên tử, xây đập sản xuất thủy điện, tưới tiêu, hàng hải, và kiểm soát lụt lội.