Somalia
Somalia

Somalia

Cộng hoà liên bang SomaliaSomalia (phiên âm tiếng Việt: Xô-ma-li-a, tiếng Somali: Soomaaliya; tiếng Ả Rập: الصومال‎ aṣ-Ṣūmāl), tên chính thức Cộng hoà Liên bang Somalia (tiếng Somali: Jamhuuriyadda Federaalka Soomaaliya, tiếng Ả Rập: جمهورية الصومال‎ Jumhūriyyat aṣ-Ṣūmāl) là một quốc gia nằm ở Vùng sừng châu Phi. Nước này giáp với Djibouti ở phía tây bắc, Kenya ở phía tây nam, Vịnh AdenYemen ở phía bắc, Ấn Độ Dương ở phía đông, và Ethiopia ở phía tây.Thời cổ đại, Somalia từng là một trung tâm thương mại quan trọng với phần còn lại của thế giới cổ đại. Các thuỷ thủthương gia của họ là những nhà cung cấp hương trầm, nhựa thơmgia vị lớn, những mặt hàng có giá trị và được coi là đồ xa xỉ tại Ai Cập cổ đại, Phoenicia, MycenaeanBabylon, những nơi người Somalia có quan hệ buôn bán.[4][5] Theo hầu hết các học giả, Somalia cũng là nơi Vương quốc Punt tồn tại.[6][7][8][9] Người Puntite cổ đại là một nhà nước của những người dân có những quan hệ gần gũi với Ai Cập Pharaon trong thời Pharaoh SahureNữ hoàng Hatshepsut. các cấu trúc kim tự tháp, đền đài và những ngôi nhà cổ được phủ đá nằm rải rác xung quanh Somalia được cho là có niên đại từ giai đoạn này.[10] Trong thời cổ đại, nhiều thành bang cổ như Opone, MosyllonMalao cạnh tranh về sự giàu mạnh với Sabaean, ParthiaAxumite. Thương mại Ấn Độ-Hy Lạp-La Mã cũng phát triển ở Somalia.[11]Sự ra đời của Đạo Hồi ở bờ đối diện Somalia trên Biển Đỏ đồng nghĩa với việc các nhà buôn, thuỷ thủ Somalia và những người di cư sống tại bán đảo Ả Rập dần rơi vào ảnh hưởng của tôn giáo mới thông qua các đối tác thương mại người Ả Rập đã cải theo Hồi giáo của họ. Với cuộc di cư của những gia đình Hồi giáo từ thế giới Hồi giáo tới Somalia ở những thế kỷ đầu tiên của Đạo Hồi và sự cải đạo hoà bình của dân cư Somali bởi các học giả Hồi giáo Somalia trong các thế kỷ sau đó, các thành bang cổ dần chuyển theo Hồi giáo Mogadishu, Berbera, Zeila, BarawaMerka, chúng đều là một phần của nền văn minh Berberi. Thành phố Mogadishu được gọi là Thành phố của Đạo Hồi,[12] và kiểm soát việc buôn bán vàng của Đông Phi trong nhiều thế kỷ.[13] Trong thời Trung Cổ, nhiều đế chế Somalia mạnh đã thống trị thương mại trong vùng gồm cả Nhà nước Ajuuraan, có biệt tài trong cơ khí thuỷ lợixây dựng pháo đài,[14] Vương quốc Hồi giáo Adal, mà vị tướng Ahmed Gurey là vị chỉ huy châu Phi đầu tiên trong lịch sử sử dụng chiến tranh pháo binh trên lục địa trong cuộc chinh phục Đế chế Ethiopia,[15]Triều đại Gobroon của Adal, sự thống trị quân sự của họ đã buộc các thống đốc của Đế chế Oman ở phía bắc thành phố Lamu phải nộp cống vật cho Quốc vương Hồi giáo Somalia Ahmed Yusuf.[16] Ở cuối thế kỷ XIX sau hội nghị Berlin, các đế chế châu Âu đã gửi quân đội của mình tới Vùng sừng châu Phi. Mối đe doạ đế quốc với Somalia buộc lãnh đạo Dervish Muhammad Abdullah Hassan, phải đứng lên hô hào các binh sĩ Somalia từ khắp Vùng sừng châu Phi và lãnh đạo một trong những cuộc kháng chiến chống thực dân lâu dài nhất.Somalia không bao giờ chính thức bị thực dân hoá.[17][18][19] Nhà nước Dervish đã thành công trong việc bốn lần đẩy lùi các cuộc tấn công của Đế chế Anh và buộc họ phải rút về vùng ven biển.[20] Nhờ danh tiếng có được ở Trung Đôngchâu Âu, nhà nước Dervish được công nhận như một đồng minh của Đế chế OttomanĐế chế Đức,[21][22] và vẫn tiếp tục giữ quan hệ này trong suốt Thế Chiến I quốc gia Hồi giáo độc lập duy nhất trên lục địa. Sau một phần tư thế kỷ kìm hãm người Anh ở một khu vịnh, cuối cùng người Dervish đã bị đánh bại năm 1920 khi Anh lần đầu tiên sử dụng máy bay ở châu Phi ném bom vào thủ đô của Dervish là Taleex. Sau thất bại này, các lãnh thổ cũ của Dervish được chuyển thành vùng bảo hộ của Anh. Italia tương tự cũng phải đối đầu với sự phản đối từ các quốc vương Hồi giáo và các đội quân Somalia và không thể kiểm soát hoàn toàn các vùng Somalia hiện đại cho tới tận thời kỳ Phát xít cuối năm 1927. Sự chiếm đóng này kéo dài tới năm 1941 và bị thay thế bởi một cơ quan hành chính quân sự Anh Quốc. Bắc Somalia tiếp tục là một vùng bảo hộ trong khi Nam Somalia trở thành một lãnh thổ uỷ trị. Liên minh của hai vùng năm 1960 đã thành lập nên Cộng hoà Dân chủ Somali.Vì những quan hệ lâu dài của họ với thế giới Ả Rập, năm 1974 Somalia được chấp nhận như một thành viên của Liên đoàn Ả Rập. Để tăng cường mối quan hệ với phần còn lại của lục địa châu Phi, Somalia đã cùng các quốc gia châu Phi khác tham gia thành lập Liên minh châu Phi, và bắt đầu hỗ trợ Lãnh thổ uỷ trị ANCNam Phi chống chế độ apartheid[23] và những lực lượng ly khai EritreaEthiopia trong Chiến tranh Độc lập Eritrea.[24] Là một nhà nước Hồi giáo, Somalia là một trong những thành viên sáng lập Tổ chức Hội nghị Hồi giáo và cũng là một thành viên của Liên hiệp quốcNAM. Dù gặp khó khăn từ cuộc nội chiến và tình trạng bất ổn, Somalia vẫn tìm cách duy trì một nền kinh tế thị trường tự do mà, theo Liên hiệp quốc, có hiệu quả hơn hẳn nền kinh tế của các quốc gia châu Phi khác.[25]

Somalia

GDP (PPP) (2014) Tổng số: 4,431 tỷ USD[2] (hạng 163)
Bình quân đầu người: 400 USD[2]
Dân số ước lượng (2014) 12.316.895[1] người (hạng 76)
Ngôn ngữ chính thức tiếng Somali, tiếng Ả Rập
Múi giờ EAT (UTC+3)
Ngày thành lập Từ Anh, Ý
1 tháng 7 năm 1960
Thủ đô Mogadishu
2°2′B 45°21′Đ / 2,033°B 45,35°Đ / 2.033; 45.350
2°02′B 45°21′Đ / 2,033°B 45,35°Đ / 2.033; 45.350
Diện tích 637.657 km² (hạng 41)
Đơn vị tiền tệ Shilling Somalia (SOS)
Diện tích nước 1,6% %
Thành phố lớn nhất Mogadishu
Mật độ 19,31[1] người/km² (hạng 199)
Tổng thốngThủ tướng Mohamed Abdullahi Mohamed
Hassan Ali Khayre
Chính phủ Cộng hòa đại nghị liên bang
HDI (2003) không có
GDP (danh nghĩa) (2019) Tổng số: 9,4 tỷ USD[2][3]
Bình quân đầu người: 300–600 USD[2][3]
Tên miền Internet .so