Quang Trung Hoàng đế (
1753 –
1792,
miếu hiệu Thái Tổ[1],
[1]) , danh xưng khác là
Bắc Bình Vương, tên thật là
Nguyễn Huệ sau đổi tên là
Nguyễn Quang Bình[1], là vị
hoàng đế thứ hai của
Nhà Tây Sơn, sau khi Thái Đức Hoàng đế
Nguyễn Nhạc thoái vị và nhường ngôi cho ông. Quang Trung không những là một trong những vị
tướng lĩnh quân sự xuất sắc bách chiến bách thắng, mà còn là nhà cai trị tài giỏi. Ông đã đưa ra nhiều chính sách
cải cách kinh tế,
xã hội nổi bật trong
lịch sử Việt Nam.Nguyễn Huệ và hai người anh em của ông, được biết đến với tên gọi
Tây Sơn tam kiệt, là những
lãnh đạo cuộc
khởi nghĩa Tây Sơn đã chấm dứt cuộc
nội chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh giữa hai tập đoàn phong kiến
Trịnh ở phía bắc và
Nguyễn ở phía nam, lật đổ hai tập đoàn này cùng
Nhà Hậu Lê, chấm dứt tình trạng phân biệt Đàng Trong – Đàng Ngoài kéo dài suốt 2 thế kỷ. Ngoài ra, Quang Trung còn là người đánh bại các cuộc xâm lược
Đại Việt của
Xiêm La từ phía nam, của
Đại Thanh từ phía bắc. Bản thân ông đã cầm quân chiến đấu từ năm 18 tuổi, trong 20 năm liền đã trải qua hàng chục trận đánh lớn, và chưa hề thua một trận nào.Nhiều người cho rằng tài năng của Quang Trung thiên về một vị tướng cầm quân đánh trận, nhưng thực ra, ông cũng tỏ rõ tài năng cai trị nhân dân trong cương vị của một
hoàng đế. Nhà sử học
Phan Huy Lê đã đánh giá “Quang Trung không chỉ là một nhà quân sự lỗi lạc mà còn là một nhà chính trị có biệt tài”
[2] Với nhãn quan tiến bộ, chỉ trong 3 năm, ông đã liên tiếp đề ra nhiều kế hoạch cải cách tiến bộ trong
kinh tế,
văn hóa,
giáo dục,
quân sự,... nhằm xây dựng đất nước và tiếp thu
khoa học kỹ thuật hiện đại từ phương Tây.
[3] Về nhân sự, ông đã xuống chiếu cầu hiền và trọng dụng nhiều nhân tài như
Ngô Thì Nhậm,
Phan Huy Ích,
Nguyễn Thiệp,
Nguyễn Huy Lượng... Về quân sự, ông cho xây dựng quân đội trang bị hiện đại (hải quân thời Tây Sơn còn hiện đại hơn cả hải quân
nhà Nguyễn sau này). Về kinh tế, ông cải cách chế độ đinh điền và ruộng đất, khuyến khích
thủ công nghiệp, mở rộng ngoại thương với phương Tây. Về
giáo dục, ông cải tiến thi cử theo hướng thiết thực và ban hành chính sách khuyến học, khuyến khích dùng
chữ Nôm thuần Việt thay cho chữ Hán để nêu cao
tinh thần dân tộc, sắp xếp lại chùa chiền dư thừa và bài trừ
mê tín dị đoan. Giới sử học đánh giá rất cao những cải cách này bởi chúng mang xu hướng rất tiến bộ và vượt trên các nước
châu Á đương thời, có thể đưa đất nước thoát khỏi sự trì trệ đã kéo dài trên 100 năm của chế độ phong kiến thời Trịnh - Nguyễn. Đến tận mãi sau này (năm
1822),
Hoa kiều từng sống ở
Huế dưới thời Tây Sơn vẫn còn hoài niệm về sự cai trị của Nguyễn Huệ, họ nhận xét với thương gia
người Anh cho rằng Quang Trung cai trị ôn hòa và công bằng hơn các vua
nhà Nguyễn (
Gia Long và
Minh Mạng)
[4] (xem chi tiết tại
những cải cách tiến bộ của vua Quang Trung).Về mặt đối ngoại, Quang Trung tỏ rõ tham vọng vượt xa các vị vua khác trong lịch sử Việt Nam. Ông là vị vua
Đại Việt duy nhất đã xúc tiến việc giành lấy lãnh thổ của Trung Quốc (tỉnh
Quảng Tây) để mở rộng lãnh thổ cho Đại Việt, cũng là hoàng đế Đại Việt duy nhất có đủ khí phách để chủ động
cầu hôn với một
công chúa Trung Hoa (để thông qua đó ép vua
Càn Long của Trung Quốc cắt tỉnh Quảng Tây, nếu không được thì sẽ dùng quân sự đánh chiếm
[5]) Vua
Càn Long, vị vua nổi tiếng với
Thập toàn võ công trong thời cực thịnh của
nhà Thanh, cũng phải đánh giá rất cao tài năng của Quang Trung. Sau này, trong bài thơ
Lịch sử nước ta, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ca ngợi Quang Trung là người “phi thường", có "chí cả mưu cao".Cuộc đời hoạt động của Nguyễn Huệ được một số sử gia đánh giá là đã đóng góp quyết định vào sự nghiệp thống nhất đất nước của triều đại Tây Sơn
[6] Sau 20 năm liên tục chinh chiến và 3 năm trị nước, khi tình hình đất nước bắt đầu có chuyển biến tốt thì Quang Trung đột ngột
qua đời ở tuổi 39. Sau cái chết của ông,
Nhà Tây Sơn suy yếu nhanh chóng. Người kế vị ông là
Quang Toản vẫn còn quá nhỏ (9 tuổi) nên không đủ khả năng để lãnh đạo
Đại Việt, triều đình lâm vào mâu thuẫn nội bộ và đã thất bại trong việc tiếp tục chống lại
Nguyễn Ánh.Cuộc đời ông được biết đến qua các bộ sử của
nhà Hậu Lê và
nhà Nguyễn, các sử gia
cận đại,
hiện đại và cả trong
văn học dân gian. Khi Quang Trung mất, nhân dân nhiều nơi đã xây
lăng, lập
đền thờ, dựng
tượng đài và
bảo tàng để tưởng nhớ công lao của ông. Dù sau này
Nhà Nguyễn tìm nhiều cách xóa bỏ uy tín của Quang Trung (nhà Nguyễn là hậu duệ của
chúa Nguyễn, từng bị
nhà Tây Sơn đánh đổ) như phá bỏ đền thờ, cấm người dân
thờ cúng, truy lùng các bề tôi, con cháu của Quang Trung...
Nhà Nguyễn cũng hư cấu các tình tiết mang dụng ý bêu xấu và gọi ông là "giặc" trong các tài liệu triều đình. Bất chấp những điều đó, ký ức về các chiến công của Quang Trung vẫn được những người mến mộ ông truyền tụng suốt 150 năm. Dù bị nhà Nguyễn ngăn cấm, nhưng sau này, số
đền thờ mà người dân lập cho Quang Trung vẫn nhiều hơn hẳn số
đền thờ dành cho các vua
nhà Nguyễn, cho thấy sự ủng hộ và hoài niệm lớn lao của nhân dân về triều đại do vua Quang Trung cai trị.Ngày nay, Nguyễn Huệ được coi là vị
anh hùng dân tộc của
Việt Nam, nhiều
trường học và
đường phố ở các địa phương được đặt các tên Quang Trung và Nguyễn Huệ, riêng ở
Thành phố Hồ Chí Minh có một
đường phố đồng thời là một
đường hoa và cũng là
phố đi bộ mang tên ông.