Ái Tân Giác La Phổ Nghi (
phồn thể: 愛新覺羅溥儀;
bính âm: Ài Xīn Jué Luó Pǔ Yí;
7 tháng 2, năm
1906 –
17 tháng 10, năm
1967) hay
Aisin Gioro Puyi (
tiếng Mãn: ᠠᡳᠰᡳᠨ ᡤᡳᠣᡵᠣ
ᡦᡠ ᡳ), Hãn hiệu:
Cáp Ngõa Đồ Du Tư Hãn (
chữ Hán: 哈瓦图猷斯汗 -
tiếng Mãn: Хэвт ёс хаан)
[1],
Tây Tạng tôn vị
Văn Thù Hoàng đế (文殊皇帝), là vị
Hoàng đế thứ 12 và là
quân chủ cuối cùng của triều đại
Mãn Thanh nói riêng và của
chế độ quân chủ trong
lịch sử Trung Quốc nói chung. Ông lên ngôi lúc 2 tuổi, thoái vị năm
1912 khi
Cách mạng Tân Hợi bùng nổ và được
Phát xít Nhật đưa lên làm
Hoàng đế bù nhìn của
Đại Mãn Châu Đế quốc ở Đông Bắc
Trung Quốc năm
1934. Năm
1945, ông bị Quân đội
Xô viết bắt và quản thúc, sau đó có góp mặt trong phiên tòa xét xử các tội phạm chiến tranh của Nhật. Từ năm
1949 đến
1959, ông được trả về nước và bị
Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quản thúc, giam giữ vì tội danh bắt tay với quân xâm lược Nhật.
Tháng 12 năm
1959, ông được thả và sống ở
Bắc Kinh như một thường dân cho đến khi qua đời. Cuộc đời của ông có nhiều nét giống với
Bảo Đại, vị vua cuối cùng của Việt Nam. Cả hai đều mất ngôi vua do Cách mạng lật đổ chế độ phong kiến, sau đó vài năm thì cả hai lại được đưa lên ngôi vị "Quốc trưởng" bởi thế lực xâm chiếm đến từ nước ngoài (Phổ Nghi là quân Nhật, Bảo Đại là quân Pháp), và cuối cùng thì cả hai đều mất ngôi một lần nữa và sống như một thường dân cho đến khi qua đời.Ông có một
niên hiệu chính thức khi là Hoàng đế Đại Thanh, gọi là
Tuyên Thống, do đó hay được gọi là
Tuyên Thống Hoàng đế (宣統皇帝). Và dù sau này ông có thêm hai niên hiệu khác trong thời kỳ Mãn Châu quốc là
Đại Đồng cùng
Khang Đức, thì ông vẫn được biết đến như Tuyên Thống Đế hơn cả. Do viết chiếu thư nhường vị, ông cũng được biết đến với vị hiệu là
Tốn Hoàng đế (遜皇帝) hay
Mạt đại Hoàng đế (末代皇帝).