Lớp Dương xỉ tòa sen hay
lớp Tòa sen (
danh pháp khoa học:
Marattiopsida) là một nhóm
dương xỉ chỉ chứa một bộ với danh pháp
Marattiales và một họ có danh pháp
Marattiaceae.
[1]Lớp Marattiopsida đã rẽ nhánh ra khỏi các nhóm dương xỉ khác từ rất sớm trong lịch sử tiến hóa của mình và hoàn toàn khác biệt với nhiều loại thực vật quen thuộc đối với những người ở khu vực
ôn đới. Nhiều loài trong lớp này có thân rễ to, nhiều thịt và có các
lá lược lớn nhất trong số các loài dương xỉ. Họ Marattiaceae là một trong số hai họ
dương xỉ túi bào tử thật, nghĩa là
túi bào tử được hình thành từ một nhóm tế bào chứ không phải túi bào tử mỏng (trong đó túi bào tử sinh ra từ một tế bào ban đầu).
[2]Người ta công nhận 4 chi còn sinh tồn là
Angiopteris,
Christensenia,
Danaea và
Marattia nhưng phân tích di truyền/phát sinh chủng loài gần đây
[3] đã xác định rằng chi Marattia là
cận ngành và chia nó làm 3 chi, với 2 chi mới là
Eupodium và
Ptisana. Lớp này cũng chứa nhiều chi đã tuyệt chủng chỉ còn hóa thạch như
Psaronius,
Asterotheca,
Scolecopteris,
Eoangiopteris,
Qasimia,
Marantoidea,
Danaeites,
Marattiopsis v.v.Trong nhóm này, tán lá lược lớn có thể thấy ở chi
Angiopteris (dương xỉ móng trâu), có nguồn gốc từ
Australasia,
Madagascar và
châu Đại Dương. Các lá lược có thể dài tới 9 m như ở loài
Angiopteris teysmanniana ở
Java. Tại
Jamaica loài Angiopteris evecta đã xâm nhập và thích nghi với điều kiện thổ nhưỡng ở đây. Nó bị coi là
loài xâm hại. Loài cây này được
Bligh, khi đó là đại úy hải quân của Hải quân Hoàng gia Anh, đưa từ
Tahiti vào đây như là nguồn cung cấp lương thực cho các
nô lệ và lần đầu tiên được trồng tại các khu
vườn Castleton năm 1860. Từ đây, nó đã lan rộng ra khắp nửa phía đông của đảo này. Các tên gọi chi như Archangiopteris, Macroglossum, Protangiopteris, Protomarattia đều là đồng nghĩa của Angiopteris.Một chi khác từ Đông Á là
Christensenia, một loại dương xỉ kỳ dị với các lá lược tương tự như lá của
dẻ ngựa. Tên gọi khoa học của loài
Christensenia aesculifolia có nghĩa là lá dẻ ngựa Christensen.
Christensen là họ của một nhà dương xỉ học nổi tiếng người
Đan Mạch. Mặc dù kích thước tương đối nhỏ của thực vật trong chi này, nhưng
khí khổng của Christensenia là lớn nhất đã biết trong giới thực vật.
[4]Chi thứ ba,
Danaea là đặc hữu của khu vực nhiệt đới Tân thế giới. Chúng có các lá lông chim kép với các lá chét mọc đối, là các loài có tính lưỡng hình, các lá sinh sản thu nhỏ lại hơn và được che phủ ở mặt dưới bằng các cụm túi bào tử lõm xuống.Chi phổ biến nhất trong họ Marattiaceae là
Marattia, có mặt trong khắp khu vực nhiệt đới, thông thường ở các cao độ lớn. Đây cũng là các loài dương xỉ lớn với các thân rễ hình cầu, nhưng các lá lược có thể là dạng lông chim kép tới 4 lần. Các
túi bào tử hợp nhất thành các cấu trúc hai mảnh vỏ gọi là cụm túi bào tử. Marattia nghĩa hẹp được tìm thấy ở khu vực nhiệt đới Tân thế giới và
Hawaii.Chi
Eupodium cũng là nhiệt đới Tân thế giới, với 3 loài. Nó có lá lược kép 2-5 lần, cụm túi bào tử hợp nhất (synangium) có cuống khác biệt và các râu trên các đoạn phiến lá phía xa. Sự phân chia phiến giảm dần về phía đỉnh lá lược. Các loài Eupodium thường chỉ ra một lá lược mỗi năm (đôi khi 2).Chi
Ptisana là nhiệt đới Cựu thế giới. Nó có lá lược kép 2-4 lần, với kích thước các lá lược có thể sánh với lá lược ở chi
Angiopteris. Các đoạn tận cùng thường có khớp nối rõ nét nơi chúng đính vào. Các túi bào tử không có các khe môi như ở Marattia và Eupodium, còn các cụm túi bào tử hợp nhất bị chẻ sâu. Tên gọi của chi phát sinh từ sự tương tự của các cụm túi bào tử hợp nhất với hạt lúa mạch đã tách vỏ. Loài dương xỉ vua (
Ptisana salicina = Marattia salicina) ở
New Zealand và
Nam Thái Bình Dương, được người Maori gọi là para cũng thuộc chi này. Đôi khi nó còn được gọi là dương xỉ khoai tây, do loài dương xỉ lớn của
Australasia với
thân rễ nhiều cùi thịt có thể ăn được đã từng được sử dụng như là nguồn cung cấp lương thực cho một số dân tộc bản địa.Theo các nghiên cứu di truyền ở mức phân tử gần đây thì dường như nhóm dương xỉ túi bao tử thật này là nhóm có quan hệ chị em với
mộc tặc (
Equisetaceae).