Từ
thời kỳ cổ đại,
nước Đức đã có các bộ lạc
người German cư ngụ. Quân dân German hết mực can trường, mãnh liệt và dưới sự lãnh đạo của tù trưởng
Arminius, họ tiêu diệt hoàn toàn ba binh đoàn
Lê dương La Mã vào năm
9, làm vỡ mộng
xâm lược của
Đế quốc La Mã. Dần dà, các bộ tộc German xâm nhập La Mã, dẫn đến sự sụp đổ của
Đế quốc Tây La Mã vào năm
476.
[1] Vua
Frank là
Chlodwig I nhất thống các bộ lạc German và chuyển sang
Ki-tô giáo. Đời vua
Karl Đại Đế, nước Frank khuếch trương mở cõi, và vào năm
800 ông được tấn phong
Hoàng đế, tái lập Đế quốc Tây La Mã. Đế quốc bị chia cắt sau khi Karl Đại Đế mất, trong đó vua
Ludwig Đức nhận phần đất phía Đông và khởi lập
nước Đức Trung Cổ. Quận công
Heinrich xứ
Sachsen xưng làm
vua Heinrich I, lập
triều Sachsen vào năm
919 nước Đức khuếch trương mở mang cương thổ.
Đế quốc La Mã Thần thánh phục hồi khi vua Đức là
Otto I xưng đế. Các Vương hầu trong Đế quốc chia cắt nước Đức và chẳng vua nào thống nhất được đất nước.
[2][3] Từ giữ
thế kỷ 15, các Hoàng đế thường là người
Áo nhà Habsburg.
[4] Vào
thời kỳ cận đại, để chống lại ách thống trị của Hoàng đế và Giáo hội
Công giáo La Mã, giáo sĩ
Martin Luther tiến hành công cuộc
cải cách Kháng Cách vĩ đại, do đó Triều đình Karl V loại bỏ đức tin của ông ra khỏi vòng
pháp luật. Cuộc
Chiến tranh Nông dân nổ ra để hưởng ứng Luther, nhưng bị Hoàng đế đàn áp. Cuộc
Chiến tranh Ba Mươi Năm (
1618 -
1648) bùng nổ giữa hai phe Kháng Cách và Công giáo, trong đó có khi vua
Thụy Điển là
Gustav II Adolf kéo binh vào đánh bại quân của Hoàng đế.
Hòa ước Westfalen làm tiêu tan giấc mộng thống nhất nước Đức thành một quốc gia
quân chủ chuyên quyền của Hoàng đế.
[5] Ngay từ năm
1525, Quận công xứ Phổ là
Albrecht theo Kháng Cách, sau Phổ hợp nhất với
Brandenburg. Sau chiến tranh, dù lãnh địa bị tàn phá nặng nề nhưng Tuyển hầu tước Vĩ đại
Friedrich Wilhelm I đã gầy dựng
quân đội Phổ - Brandenburg tinh nhuệ, bách chiến bách thắng, dùng chính sách
ngoại giao liên minh với triều Habsburg chống
Pháp.
[6][7]Với các vua
Friedrich I và
Friedrich Wilhelm I,
Vương quốc Phổ ra đời và mạnh lên hẳn.
[8] Sau khi lên ngôi vào năm
1740, ông vua thiên tài
Friedrich II Đại Đế tiến hành bảo trợ nền văn nghệ rực rỡ tại kinh kỳ
Bá Linh;
[9] ngoài ra, ông lập tức điều binh đánh chiếm tỉnh
Silesia của triều Habsburg, tiếp theo đó đại thắng liên quân Áo - Sachsen trong cuộc
Chiến tranh Silesia lần thứ hai,
[10] và rồi đó đánh tan tác liên quân Áo -
Nga - Pháp -
Thụy Điển và phần lớn các Vương hầu của Đế quốc La Mã Thần thánh trong cuộc
Chiến tranh Bảy Năm. Chiến thắng vẻ vang của người Phổ trong những cuộc chiến này đã đưa nền văn hóa dân tộc Đức trở nên phát triển vinh quang.
[11] Với những danh sĩ như
J. W. Von Goethe,
F. G. Klopstock nền văn chương Đức nở rộ độc lập khỏi sự bá đạo về văn hóa của Pháp.
[12] Hoàng đế
Joseph II toan lập lại sức mạnh của Vương triều Habsburg, nhưng không thành công do các Vương hầu liên minh với vị vua anh hùng Friedrich II Đại Đế.
[13] Vào năm
1804, Hoàng đế
Franz II xưng đế nước Áo, hai năm sau từ bỏ ngôi Hoàng đế La Mã Thần thánh trong cuộc
xâm lược của quân
Pháp do
Napoléon Bonaparte chỉ huy. Quân xâm lược cũng đánh bại quân Phổ vào năm
1806.
[12] Tuy nhiên, trong các năm
1813 -
1815 người Phổ đã chặn đứng và đại phá tan tành đại quân của Napoléon, dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ Napoléon và giải phóng nước Đức. Trong khi nước Phổ trở nên hùng mạnh, chiến thắng vang dội này làm gia tăng tinh thần
dân tộc chủ nghĩa và
tự do chủ nghĩa với khát vọng một nước Đức thống nhất nước Đức. Một cuộc
Cách mạng dân tộc - tự do của nhân dân Đức bùng nổ vào năm
1848, bị nhóm thống trị bảo thủ đàn áp.
[14][15]Dù sao đây nữa thì Triều đình Phổ cũng phải ban hành
bản Hiến pháp năm
1850, theo đó nước Phổ vẫn theo chế độ
quân chủ chuyên chế quân sự như dưới triều vị đại anh quân Friedrich II Đại Đế, song có cải tiến hơn, với công cuộc
công nghiệp hóa nhanh chóng.
[16] Nhà quý tộc
Otto von Bismarck lên làm
Thủ tướng Phổ vào năm
1862, và đã tiến hành một cuộc
Cách mạng làm nên thay đổi hết sức lớn lao trong lịch sử Âu châu, mà kết thúc với thắng lợi vang dội về
chính trị và
ngoại giao:
[17][18] nước Phổ
đánh thắng Đan Mạch vào năm
1864,
đánh thắng Áo vào năm
1866 và
đè bẹp Pháp trong các năm
1870 -
1871. Đây là một đòn giáng sấm sét vào Pháp, mở mang đất nước Đức.
[19] Với Hoàng đế
Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck, đất nước
được thống nhất,
Đế chế Đức ra đời, đề cao tinh thần quân phiệt Phổ và niềm tự hào dân tộc Đức.
[20] Cho đến năm
1914, nước Đức là
siêu cường kinh tế của cả thế giới. Nhân dân Đức trở nên kỷ cương và tài năng hơn hẳn dân Pháp và các nước khác. Trong các ngành
khoa học - kỹ nghệ, Đế chế Đức dẫn đầu thế giới, với hàng hóa chất lượng siêu việt, trong khi lực lượng
Quân đội và
Hải quân thật hùng hậu.
[19] Trong cuộc
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 -
1918), tuy thật ít đồng minh nhưng nước Đức vẫn kháng cự được trong suốt bốn chống lại quân
Đồng Minh bao gồm Anh - Pháp -
Ý - Nga -
Hoa Kỳ -
Bỉ và hầu hết cả thế giới.
[21][22]. Nước Đức thất thế, vào
tháng 3 năm 1918, dần đến một cao trào
Cách mạng lật đổ Hoàng đế
Wilhelm II, khiến nước Đức lần đầu tiên có nền
dân chủ lãnh đạo: nước
Cộng hòa Weimar ra đời vào năm
1919.
[23]Lúc chiến sự chấm dứt, đất nước bị mất đất, gây làn sóng phẫn nộ của nhân dân trước kẻ thù ôn dịch. Nhờ có nhà chính khách đại tài
Gustav Stresemann, nước Đức vẫn giữ vững sự nhất thống của dân tộc và ổn định lại tình hình với những thành công ngoại giao rục rỡ.
[23][24] Nền kinh tế đất nước được hồi phục, nền văn nghệ trở nên hưng thịnh và nhiều ngành công nghiệp trỗi dậy mạnh mẽ. Nhưng rồi cuộc
Đại Khủng hoảng kinh tế thế giới vào năm
1929 đã gây nhiều hậu quả cho đất nước, thể hiện sự yếu kém của Chính phủ dân chủ Weimar.
[25] Vào năm
1933, sau khi Tổng thống cuối cùng của Cộng hòa Weimar mất, lãnh tụ Đảng
Quốc xã là
Adolf Hitler lên nắm quyền bính, thành lập lực lượng SS để thanh trừng các phe cánh đối lập.
[26] Không những thế nước Đức Quốc xã còn làm nên một thành tựu quan trọng là nhanh chóng khôi phục nền kinh tế nước nhà.
[27] Hitler cho quân tấn công Ba Lan vào năm
1939, làm Anh Quốc và Pháp tuyên chiến với nước Đức và mở đầu cuộc
Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Sau chiến thắng ban đầu của mình, vị lãnh tụ dễ dàng chiếm lĩnh hàng loạt quốc gia châu Âu, trong đó có Pháp và Bỉ. Quân Anh cũng đại bại tại
châu Phi, nhưng quân Đức không diệt nổi
Liên bang Xô viết và quân
Mỹ nhảy vào tham chiến. Cho đến năm
1945, đất nước bại trận.
[28][29] Nước Đức bị chia cắt làm 4 khu vực chiếm đóng của quân
Đồng Minh, và bọn họ thực hiện chính sách
Phi Quốc xã hóa (de-Nazification),
[30] đồng thời Hoa Kỳ viện trợ cho Đức hồi phục kinh tế. Nước Đức được độc lập vào năm
1949, và cuộc
Chiến tranh Lạnh dẫn đến việc hình thành Nhà nước
Cộng hòa Liên bang Đức theo chế độ dân chủ và
Cộng hòa Dân chủ Đức theo
chủ nghĩa cộng sản. Nhiều người Đức tỵ nạn khỏi phía Đông được Cộng hòa Liên bang Đức hỗ trợ, đồng thời Nhà nước này cũng tiến hành khôi phục kinh tế đến mức thần kỳ, đưa đất nước trở thành một trong những nền kinh tế công nghiệp hàng đầu thế giới. Nhờ có Thủ tướng
Konrad Adenauer, nước Cộng hòa Liên bang Đức đạt thành tựu ngoại giao vang dội, nhờ đó tích cực tham gia chính trường Âu châu.
[31]. Thủ tướng
Helmut Kohl cũng tiếp tục đưa đất nước trở nên gắn bó với các quốc gia châu Âu khác, và đạt thành tựu to lớn là thỏa thuận
tái thống đất nước: nhờ đó vào năm
1990 dưới sự lãnh đạo của Kohl, nước Đức được thống nhất như xưa.
[32]