Lịch sử châu Âu mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa châu Âu. Từ
thời tiền sử tới
thời hiện đại.
Châu Âu có một lịch sử dài, nhiều biến động và đậm nét văn hóa.Lịch sử châu Âu thời tiền sử bắt đầu với công cuộc định cư của
người vượn đứng thẳng, giống
Neanderthal, và loài người hiện đại. Vào
thời kỳ cổ đại, nền văn minh
Cổ Hy Lạp nở rộ ở châu Âu, mở đầu với hai nền văn minh
Minos và
Mycenae, và phát triển hoàng kim từ thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên, với chiến thắng của nhân dân Hy Lạp trước các cuộc xâm lược của
Đế quốc Ba Tư, trong thời này thị quốc
Athena giàu mạnh đã có nền
dân chủ[1], cho đến khi một nước Hy hóa lân cận là
Macedonia làm bá chủ Hy Lạp. Với vua
Alexandros Đại Đế, người Macedonia đã mở mang nền văn minh Hy Lạp đến tận Á châu, mở ra
thời kỳ Hy Lạp hóa.
[2] Sau đó, vào năm 31 trước Công Nguyên, Hoàng đế
Augustus sau khi chiến thắng Vương triều Hy hóa của
Ai Cập, đã lập nên
Đế quốc La Mã.
[3] với cương thổ rộng lớn trải dọc từ
Thổ Nhĩ Kỳ tới
Tây Ban Nha, từ
Bắc Phi tới
Scotland. Sự bành trướng của đế chế La Mã đặt nền tảng cho sự ra đời của hàng loạt đế chế mà chưa bao giờ được thấy trước đó ở châu Âu. Sau sự thoái trào của
Đế quốc Tây La Mã vào năm
476, lịch sử châu Âu bước vào
thời kỳ đen tối, đánh dấu bằng sự tàn tạ trong giáo dục, trong tổ chức xã hội và bởi những sự xâu xé của rất nhiều quân xâm lược man di, đặc biệt là người
Viking,
Avar,
Magyar và
người Ả Rập.Giai đoạn
Trung Cổ được đánh dấu bằng sự tái thiết xã hội có tổ chức, chủ yếu là theo chế độ
phong kiến, và sự thống trị ở phương Bắc của
Giáo hội Công giáo Rôma. Ở phía đông,
Đế quốc Đông La Mã hưng thịnh, với các Hoàng đế tài ba như
Heraclius, là một chiến tướng kiệt xuất đánh bại quân
Ba Tư vào thập niên
620. Song, chính ngay từ thời điểm này người
Ả Rập Hồi giáo càn quét châu Âu và không ít khi đánh thắng Heraclius, dù rằng người Đông La Mã vẫn mạnh lên dưới triều Hoàng đế
Basil II, và trong
trận Tours (
732),
Vương quốc Frank (người German) đã đánh tan tác quân Ả Rập.
[4] Vào năm
800, sau khi đã bành trướng nước Frank cường thịnh, chinh phạt các tộc German khác, vua
Karl Đại đế được
Giáo hoàng Lêô III phong làm Hoàng đế Công giáo ở phương Tây đối trọng với Đông La Mã. Tuy Đế quốc tan rã sau khi Karl Đại Đế mất,
Vương quốc Đông Frank - nước
Đức - dưới các triều vua
Heinrich der Finkler và
Otto Đại đế đã lớn mạnh, đánh tan tành quân Magyar điều này dẫn đến việc Otto Đại Đế lên làm Hoàng đế của
Đế quốc La Mã Thần thánh.
[5] Trước sức mạnh của đạo Hồi, các cuộc
Thập tự chinh bùng nổ, và cuối cùng
Đế quốc Ottoman của người
Thổ Nhĩ Kỳ hưng thịnh lên và chinh phạt kinh thành
Constantinopolis vào năm
1453, làm cho Đế quốc Đông La Mã diệt vong.
[6] Trong khi đó,
Anh Quốc kể từ đời vua
Edward III đánh nhau với Pháp trong suốt cuộc
Chiến tranh Trăm Năm tàn khốc.
[7] Thời Trung Cổ được tiếp nối bởi công cuộc
Phục hưng, một sự tái khám phá giá trị và tri thức cổ điển, với sự hồi sinh của hai nền văn hóa Hy Lạp cổ,
[8] và làm bàn đạp cho phong trào
Cải cách Kháng Cách, một phong trào tôn giáo và chính trị đã chứng kiến phần lớn Bắc Âu từ bỏ Giáo hội Công giáo Rôma đồng thời tái xác định văn hóa cũng như các khối liên minh ở khắp lục địa, trào lưu tôn giáo này mở đầu với nhà thần học
Martin Luther người Đức khi ông lên án hệ thống Giáo hội Công giáo Rôma vào năm
1517. Ông kiên quyết bảo vệ luận điểm của mình,
[9] Thời kỳ này cũng chính là nền tảng cho sự phát triển của bành trướng thuộc địa, củng cố sức mạnh ở các quốc gia thuộc
Đại Tây Dương của Anh Quốc,
Pháp,
Bồ Đào Nha và
Tây Ban Nha đồng thời mở rộng tầm ảnh hưởng của châu Âu tới
châu Mỹ,
châu Phi,
Ấn Độ và phương Đông. Thời kỳ này là bước ngoặt cho cuộc
cách mạng công nghiệp và một thời kỳ tri thức được gọi là
trào lưu Khai sáng.Nửa cuối
thế kỷ 17 chứng kiến Vương quốc Pháp của vua
Louis XIV vươn lên thành liệt cường quân sự hùng mạnh, với dã tâm xâm phạm các nước láng giềng, song ông ta bị vua
William III nước Anh chặn đứng.
[10] Song vào
thế kỷ 18, ảnh hưởng của cả Anh Quốc và Pháp tại châu Âu suy sụp dần đi, và các Vương triều
Đông Âu vươn lên thành các
liệt cường.
[11] Với vị
Hoàng đế hùng mạnh
Pyotr Đại Đế,
Đế quốc Nga - nước rộng lớn nhất của Âu châu - đánh thắng Vương quốc
Thụy Điển, và lên làm bá chủ của miền
Bắc Âu. Bên cạnh đó,
Vương quốc Phổ - một quốc gia bé nhỏ khi đó - cũng phát triển cường thịnh, với vị
Quốc vương lỗi lạc
Friedrich II Đại Đế, nhiều trận thắng của ông trước liên quân hùng hậu
Áo - Nga - Pháp - Thụy Điển đã trở thành kinh điển, làm nước Phổ trở nên phi thường trong mắt người Âu.
[12][13] Ngay từ thế kỷ 17, rất nhiều các quốc gia ở châu Âu thực hiện hàng loạt những cuộc cách mạng, trong đó nổi bật nhất là
cách mạng Pháp, cuộc cách mạng mở đầu cho hàng loạt cuộc chinh phạt của
Napoléon Bonaparte. Việc phá hủy các quốc gia đang tồn tại của Napoléon Bonaparte và sau đó tái tổ chức châu Âu với
hội nghị Viên đã tiếp sức cho chủ nghĩa dân tộc đang phát triển, dẫn đến sự ra đời của
đế quốc Áo-Hung sau đó, sự thống nhất của nước Đức, sự thống nhất của Ý và những căng thẳng tại
vùng Balkan, cũng như những cải cách mạnh mẽ trong đế quốc Nga. Rồi Anh và Pháp, phần nào đó là
Đế quốc Ottoman, những quốc gia được biết đến là
cường quốc. Các căng thẳng không giải quyết được tại
Balkan, và một hệ thống những khối đồng minh được gọi là
Đồng minh ba nước (1882) và khối đồng minh ba nước chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cuộc
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, bản thân nó cũng mở đường cho
cách mạng Nga và chỉ kết thúc với sự tham gia của Hoa Kỳ. Hiệp ước đình chiến đã để lại cho Đức gánh nặng bồi thường thiệt hại, gánh nặng này, kết hợp với
Đại suy thoái (Great Depression), đã tạo điều kiện để
đảng Phát xít của
Adolf Hitler cầm quyền, mở đầu cho sự ra đời của
Đệ tam Quốc xã cũng như sự xuất hiện của những đảng Phát Xít tại Tây Ban Nha (xem
Nội chiến Tây Ban Nha) và
Ý. Cuộc xâm chiếm
Ba Lan,
Bỉ và
Pháp của Hitler là tín hiệu cho sự khởi đầu của
Chiến tranh thế giới lần thứ hai.Chiến thắng của
Phe Đồng Minh tại châu Âu và sự đầu hàng của Nhật Bản đã chứng kiến việc quyền lực tại
Trung Âu được chia sẻ giữa
Liên bang Xô Viết,
Anh Quốc,
Hoa Kỳ và
Pháp. Tuy nhiên, điều này nhanh chóng dẫn đến sự hình thành các khối Đông-Tây trong
Chiến tranh Lạnh khi mà
khối Warszawa do Liên Xô đứng đầu đối mặt với khối
NATO do Mỹ cầm đầu và được ngăn cách qua cái gọi là
Bức màn sắt, biểu tượng tiêu biểu là
Bức tường Berlin. Tây Âu sau đó trải qua giai đoạn phát triển kinh tế ổn định và mạnh mẽ, thành lập ra
Cộng đồng Kinh tế châu Âu và sau đó là
Liên minh châu Âu. Trong khi đó, khối Warszawa tụt hậu, sau cùng dẫn đến cuộc cải tổ Nga, khối Warszawa tan vỡ và bức tường Berlin sụp đổ. Sau chiến tranh lạnh ở châu Âu thì sự kiện chính nổi lên là cuộc chiến sắc tộc tại Balkan, nổi bật tại
Serbia,
Bosnia và
Kosovo, cùng với sự can thiệp của NATO sau đó. Từ
sự kiện 11 tháng 9, chính sách đối ngoại của NATO bị gia tăng sự chi phối do phản ứng của nó với
thế giới Hồi giáo, và nổi bật hơn cả là những quan điểm mâu thuận về cuộc chiến ở Iraq, trong khi đó thì liên minh châu Âu cũng kết nạp thêm phần lớn những thành viên của khối Warszawa cũ cũng như các quốc gia vùng Baltic.