Lê_Nghi_Dân

Lê Nghi Dân (chữ Hán: 黎宜民 tháng 10, 1439[3]6 tháng 6, 1460), thường được gọi là Lệ Đức hầu (厲德侯), Lạng Sơn vương (諒山王), là vị hoàng đế thứ tư của triều đại Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông tiếm vị trong một thời gian ngắn, từ tháng 10 năm 1459 đến khi bị phế truất vào tháng 6 năm 1460, với niên hiệuThiên Hưng (天興). Đôi khi, ông cũng được gọi là Thiên Hưng Đế (天興帝).Lê Nghi Dân sinh ra là con trưởng, trước kia từng được lập làm Hoàng thái tử, sau đó bị phế truất làm phiên vương do mẹ là Dương phi bị thất sủng và bị giáng làm thứ nhân. Em trai của ông là Lê Bang Cơ được lập làm Hoàng thái tử thay thế ông.[4][5]Về sau, Lê Nghi Dân làm binh biến, lật đổ em trai ông là Lê Nhân Tông, tự lập lên ngôi vị. Nhưng chưa tròn một năm, Lê Nghi Dân bị các đại thần lật đổ vì cho rằng ông không có tài cán và mang tội phản nghịch.[6] Sau khi bị lật đổ, ông bị giáng làm Lệ Đức hầu và thường không được xem là vị quân chủ chính thống của nhà Hậu Lê.

Lê_Nghi_Dân

Kế nhiệm Lê Thánh Tông
Thân mẫu Dương phi
Tước vị Lạng Sơn vương
Tên húyNiên hiệuThụy hiệu
Tên húy
Lê Nghi Dân (黎宜民)
Niên hiệu
Thiên Hưng (天興)
Thụy hiệu
Lệ Đức hầu (厲德侯)
Tiền nhiệm Lê Nhân Tông
Triều đại Hoàng triều Lê
Trị vì 7 tháng 10 năm 1459 -
6 tháng 6 năm 1460
(&-1-1-1-1-1-1-1-1-1-1-1-1-1-1-1-1.0000000 năm, &0000000000000243.000000243 ngày)
Sinh tháng 6, 1439[1]
Mất 6 tháng 6, 1460(1460-06-06) (20–21 tuổi)[2]
Đông Kinh, Đại Việt
Thân phụ Lê Thái Tông

Liên quan