Lãi suất là tỷ lệ mà theo đó
tiền lãi được người vay trả cho việc sử dụng tiền mà họ vay từ một
người cho vay. Cụ thể, lãi suất (I/m) là phần trăm tiền gốc (P) phải trả cho một số lượng nhất định của thời gian (m) mỗi thời kỳ (thường được tính theo năm). Ví dụ, một công ty nhỏ vay vốn từ một ngân hàng để mua tài sản mới cho doanh nghiệp của mình, và ngược lại người cho vay nhận được tiền lãi theo lãi suất quy định cho việc trì hoãn sử dụng các khoản tiền và thay vào đó bằng việc cho vay nó cho người vay. Lãi suất thường được thể hiện như một
tỷ lệ phần trăm của
tiền gốc trong một khoảng thời gian một năm.
[1]Các mục tiêu lãi suất là một công cụ quan trọng của
chính sách tiền tệ và được tính tới khi xử lý các biến số như
đầu tư,
lạm phát và
thất nghiệp. Các ngân hàng trung ương hoặc các ngân hàng dự trữ của các nước nói chung có xu hướng giảm lãi suất khi họ muốn tăng cường đầu tư và tiêu dùng trong nền kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, một lãi suất thấp như là một chính sách kinh tế vĩ mô có thể là
rủi ro và có thể dẫn đến việc tạo ra một
bong bóng kinh tế, trong đó một lượng lớn các đầu tư được đổ vào thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán. Điều này đã xảy ra tại Nhật Bản vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, sinh ra các khoản nợ lớn không được thanh toán cho các ngân hàng Nhật Bản và sự phá sản của các ngân hàng này và gây ra
đình lạm trong
nền kinh tế Nhật Bản (Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới vào thời điểm đó), với xuất khẩu trở thành trụ cột cuối cùng cho sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản trong suốt phần còn lại của những năm 1990 và đầu những năm 2000. Kịch bản tương tự đã sinh ra từ việc hạ lãi suất của Hoa Kỳ kể từ cuối những năm 1990 đến nay (xem
khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2012) về căn bản bởi quyết định của
Hệ thống Dự trữ Liên bang. Dưới thời
Margaret Thatcher, nền kinh tế của Vương quốc Anh duy trì tăng trưởng ổn định bằng cách không cho phép
Ngân hàng Anh giảm lãi suất. Như thế, trong các
nền kinh tế phát triển, các điều chỉnh lãi suất đã được thực hiện để giữ lạm phát trong phạm vi mục tiêu vì sức khỏe của các
hoạt động kinh tế, hoặc thiết lập giới hạn trên của lãi suất đồng thời với
tăng trưởng kinh tế để bảo vệ
đà kinh tế.
[2][3][4][5][6][7]