J, j (đọc là "giây" - /dʒeɪ/ theo tiếng Anh hoặc "gi" - /ʒi/ theo tiếng Pháp, âm đọc nặng hơn so với /zi/ - "di") là chữ thứ 10 trong phần nhiều chữ cái dựa trên
Latinh. Tuy nhiên, do ảnh hưởng từ
tiếng Ý khi J không được dùng nên nó cũng không được sử dụng trong
tiếng Việt; để thay thế,
Quốc Ngữ sử dụng cặp chữ "gi" cho âm /j/ giống tiếng Ý. Ví dụ như
Jarai thành "
Gia Rai", Jeh-Tariang thành "
Giẻ Triêng".Đầu tiên J chỉ là chữ hoa cho chữ I nên nhiều người ở những nước nói
tiếng Đức vẫn viết tên Isabel như Jsabel hay Ines như Jnes, trong khi ở
Ý người ta vẫn có thể gặp chữ J được sử dụng như chữ I hoa trong cách viết cổ, còn cách viết hiện đại thì GI thay J.Nhà nhân văn học
Pierre de la Ramée (mất năm
1572) là người đầu tiên phân biệt chữ I với chữ J. Đầu tiên, hai cái chữ I và J đều phát âm như /i/, /i:/ và /j/ nhưng các ngôn ngữ trong
nhóm ngôn ngữ Rôman phát triển thêm các âm mới (từ /j/ và /g/ cũ) cho I và J; do đó chữ J trong
tiếng Anh (đến từ
tiếng Pháp) có âm khác hẳn với chữ I.Trong những ngôn ngữ thuộc
nhóm ngôn ngữ German ngoài tiếng Anh, chữ J phát âm như /j/. Trong
tiếng Thổ Nhĩ Kỳ,
tiếng Azeri và
tiếng Tatar, chữ J lúc nào cũng phát âm như /ʒ/.Trong tiếng Nhật, ざじずぜぞ là các chữ trong cùng một hàng được viết theo romaji là za-ji-zu-ze-zo. じ được dịch sang "ji" (dùng chữ J) thay vì "zi" (dùng chữ Z) thể hiện rằng chữ này nên đọc nặng âm "dờ" hơn so với các chữ khác.