Hồi sinh là một môn khoa học nghiên cứu về
dự phòng và
điều trị các tình trạng
hấp hối khác nhau. Môn này được hình thành và phát triển từ giữa
thế kỷ 20 nhờ những tiến bộ trong
phẫu thuật nhất là phẫu thuật
tim phổi,
mạch máu. Phương pháp hồi sinh là phương pháp khoa học đấu tranh chống lại cái
chết. Nhờ phương pháp này, con người có thể khôi phục được các chức phận của cơ thể đã lâm vào thời kỳ hấp hối hay
chết lâm sàng. Nói chung phương pháp này có kết quả tốt trong những trương hợp
chết não trong khi các cơ quan quan trọng trong cơ thể vẫn còn khá tốt. Những
bệnh mãn tính đã gây ra rối loạn
chức phận sâu sắc thì kết quả thấp. Người hấp hối có tỷ lệ hồi sinh cao hơn người chết lâm sàng, và chết càng lâu thì khả năng phục hồi càng kém. Khi hồi sinh có kết quả thì tuần hoàn não được khôi phục có tác dụng đem
ôxy lên cho tổ chức não, làm khôi phục chức năng của
hệ thần kinh. Khi khu
hành tủy được khôi phục thì
hô hấp tự động xuất hiện.
Hưng phấn khu hành tủy lan tới
trung khu vận mạch có tác dụng cải thiên tuần hào não, phục hồi các
chức năng cao cấp khác. Mặc dù hiểu biết của con người về quá trình chết cũng như kỹ thuật hồi sinh ngày càng hiện đại song chết lâm sàng và chết sinh vật vẫn chưa được hiểu rõ, thường chỉ được kết luận theo kinh nghiệm. Vì vậy đôi khi vẫn có "phép mầu nhiệm" xảy ra: một
bệnh nhân được coi là đã chết, các can thiệp y học đã chấm dứt, nhưng vì lý do nào đó
xác chết sống lại bất chấp thời gian chết lâm sàng hành chục tiếng.