Hoàng_Thái_Cực
Hoàng_Thái_Cực

Hoàng_Thái_Cực

Hoàng Thái Cực (chữ Hán: 皇太極; tiếng Mãn: ᡥᠣᠩ ᡨᠠᡳᠵᡳ, chuyển tả: Hong Taiji, 28 tháng 11, 159221 tháng 9 năm 1643), là vị Đại hãn thứ hai của nhà Hậu Kim, và là Hoàng đế sáng lập triều đại nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.[1] Ông cai trị từ năm 1626 đến năm 1643, được 16 năm.[2] Một số ý kiến cho rằng ông mất vào năm 1644, cai trị được 17 năm.[3][4] Các hậu duệ suy tôn miếu hiệu cho ông là Thanh Thái Tông (清太宗). Do ông bắt đầu thành lập Đại Thanh và dùng suốt niên hiệu Sùng Đức (崇德), nên còn có thể gọi ông là Sùng Đức Đế (崇德帝).Năm 1626, Hoàng Thái Cực kế vị ngôi Khả hãn của cha với Hãn hiệu Thiên Thông Hãn (chữ Hán: 天聰汗; tiếng Mãn: Богд сэцэн хаан, Bogd Sechen Khan),[3][5] mà với sự thông minh, cơ trí của mình, ông đã vượt qua những người anh em của mình và cũng là những ứng viên cho ngôi Đại Hãn để lên ngôi tối cao. Bằng sự quyết đoán, khôn khéo, ông đã từng bước tăng cường và củng cố vị trí quyền lực độc tôn trong bối cảnh phức tạp lúc bấy giờ.Khi ở ngôi Hãn, Hoàng Thái Cực đã củng cố đế quốc do Nỗ Nhĩ Cáp Xích thành lập. Ông đặt nền tảng cho cuộc chinh phạt nhà Minh ở Trung nguyên, dù ông chết trước khi điều đó hoàn tất. Ông băng hà vào năm 1643 nhưng không chứng tỏ sự suy yếu tham vọng của người Mãn Châu.[6]Sau khi lên nối ngôi, Hoàng Thái Cực đã thay đổi nhiều chính sách quan trọng, góp phần hóa giải được mối mâu thuẫn giữa hai dân tộc Mãn và Hán, khiến thần dân của Hán tộc trong khu vực cai trị của họ dần dần thay đổi thái độ thù địch để phục tùng triều đình một cách tự nguyện. Cũng qua những chính sách cởi mở đó đã giúp cho ông nhận được sự góp sức của nhiều nhân tài có xuất thân khác nhau. Chính Hoàng Thái Cực đã đổi tên của tộc người của mình từ Nữ Chân thành Mãn Châu năm 1635, đồng thời đổi tên quốc hiệu từ nhà Hậu Kim thành nhà Thanh vào năm 1636, sau khi xưng Hoàng đế.[3][5][7][8][9]Ông không ngừng mở rộng lãnh thổ vào lục địa Đông Á và các vùng xung quanh, lập nên Đại Thanh quốc (大清國). Dưới sự thống lĩnh của ông, nhà Hậu Kim và là Nhà Thanh sau đó đã chinh phục Triều Tiên, tiếp đến, trong một loạt những chiến dịch quân sự, ông đã khuất phục được vùng Nội Mông trước khi tiếp tục chiếm quyền kiểm soát vùng Hắc Long Giang (sông Amur) miền Đông Bắc của nhà Minh. Hoàng Thái Cực đã hợp nhất lãnh thổ Mãn Châu dưới quyền cai trị của ông[6] và đến năm 1644, triều đại nhà Minh kết thúc và chuyển sang nhà Thanh sau khi người Mãn Châu chiếm được Bắc Kinh và chinh phục phần còn lại của Trung Quốc trong vòng 40 năm và thống trị nước này đến năm 1911.[10]Hoàng Thái Cực tiếp tục tiến hành công cuộc trị vì dựa trên các nền móng của chế độ được người cha để lại, tiếp tục phát triển và hoàn thiện chế độ Bát Kỳ bằng cách mở rộng các kỳ cho người Mông Cổ tham gia, sáp nhập các kỳ của người Hán đầu tiên vào quân đội của mình. Hoàng Thái Cực cũng chấp nhận việc áp dụng nhiều cơ cấu chính trị kiểu nhà Minh vào đất nước mình, trọng dụng nhiều nhân tài xuất thân là người Hán hay quan lại cũ của Nhà Minh nhưng luôn giữ ưu thế của người Mãn Châu trong các cơ cấu đó (thông qua một hệ thống định mức phân bổ hợp lý). Đây là cuộc cải cách mạnh mẽ, tạo tiền đề cho sự lớn mạnh của Nhà Thanh sau này trước khi họ bị cách mạng tư sản người Hán đánh đánh đổ xưa đuổi để lập ra 1 quốc gia cộng hòa dân chủ, tự do. Nhà Thanh cai trị Trung Quốc hơn hai thế kỷ rưỡi nhưng về cơ bản là triều đại ngoại tộc của một đế quốc mà xét về cơ cấu chủ yếu vẫn là nhà nước quân chủ Trung Quốc truyền thống rồi bị lật đổ, đánh đuổi bởi chính người Hán Trung Hoa. [11]

Hoàng_Thái_Cực

Thân mẫu Hiếu Từ Cao Hoàng hậu
Kế nhiệm Thay đổi tước hiệu
Tên thậtNiên hiệuThụy hiệuMiếu hiệu
Tên thật
Ái Tân Giác La Hoàng Thái Cực
(愛新覺羅皇太極)
Niên hiệu
Thụy hiệu
Ứng Thiên Hưng Quốc Hoằng Đức Chương Vũ Khoan Ôn Nhân Thánh Duệ Hiếu Kính Mẫn Chiêu Định Long Đạo Hiển Công Văn Hoàng đế
(應天興國弘德彰武寬溫仁聖睿孝敬敏昭定隆道顯功文皇帝)
Miếu hiệu
Thái Tông (太宗)
Hoàng hậu Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu
Hiếu Trang Văn Hoàng hậu
Tiền nhiệm Nỗ Nhĩ Cáp Xích
Hậu duệHậu duệ
Hậu duệ
Túc Thân vương Hào Cách
Lạc Cách
Lạc Bác Hội
Diệp Bố Thư
Thạc Tắc
Cao Tắc
Thường Thư
Thanh Thế Tổ Phúc Lâm
Thao Tắc
Bác Mục Quả Nhĩ
Cùng nhiều con gái khác.
Trị vì 15 tháng 5 năm 1626 - 21 tháng 9 năm 1643
(&0000000000000017.00000017 năm, &0000000000000129.000000129 ngày)
Sinh (1592-11-28)28 tháng 11, 1592
Mất 21 tháng 9, 1643(1643-09-21) (50 tuổi)
An táng Chiêu lăng (昭陵), Thẩm Dương, Trung Quốc.
Thân phụ Nỗ Nhĩ Cáp Xích

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hoàng_Thái_Cực http://www.britannica.com/EBchecked/topic/110832 http://news.sina.com/oth/chinesedaily/301-000-101-... http://catalogue.bnf.fr/ark:/12148/cb159981683 http://data.bnf.fr/ark:/12148/cb159981683 http://id.loc.gov/authorities/names/n84018818 http://d-nb.info/gnd/138504326 http://id.ndl.go.jp/auth/ndlna/00627831 http://sillok.history.go.kr/inspection/insp_king.j... http://isni-url.oclc.nl/isni/0000000063146462 http://zh.wikisource.org/wiki/%E6%98%8E%E5%8F%B2/%...