Hiệp định Paris về Việt Nam hoặc
hiệp định Paris 1973 (ở miền Nam còn gọi là
Hiệp định Ba Lê) là hiệp định chấm dứt
chiến tranh, lập lại hòa bình ở
Việt Nam do 4 bên tham chiến:
Hoa Kỳ,
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Cộng hòa miền Nam Việt Nam và
Việt Nam Cộng hòa ký kết tại
Paris ngày
27 tháng 1 năm
1973. Về mặt công khai thì đàm phán có 4 bên và nội dung chính thức của bản Hiệp định cơ bản dựa trên Tuyên bố 10 điểm ngày 08-05-1969 của phái đoàn
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, nhưng việc đàm phán để đạt được nội dung hiệp định lại chủ yếu được quyết định bởi các phiên
họp kín giữa 2 đoàn
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và
Hoa Kỳ.
[1]Trong quá trình đàm phán, Hoa Kỳ gần như phớt lờ ý kiến của đoàn
Việt Nam Cộng hòa và tự sắp đặt mọi chuyện trong các cuộc họp kín với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
[2] trong khi phái đoàn
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam lại luôn có sự phân công, phối hợp nhịp nhàng, ăn ý, liên tục thảo luận với nhau trước khi đưa ra quyết sách.
[3] Do vậy, sau khi điều khoản Hiệp định được thống nhất giữa
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và
Hoa Kỳ thì đoàn Việt Nam Cộng hòa lại từ chối ký vì có những điều khoản bất lợi cho họ. Nhưng Việt Nam Cộng hòa chỉ phản đối được vài ngày, bởi sau đó Hoa Kỳ đã đe dọa và buộc đoàn này phải ký Hiệp định
[4].
Lê Đức Thọ và
Henry Kissinger, hai nhân vật chủ yếu trong cuộc đàm phán, đã được trao
giải Nobel Hòa Bình năm 1973, nhưng Lê Đức Thọ đã từ chối không nhận giải này với lý do hòa bình vẫn chưa lập lại tại Việt Nam. Còn ông Kissinger yêu cầu đại sứ Mỹ tại Na Uy thay mặt mình nhận giải.
[5] Ông Lê Đức Thọ cũng cho rằng việc nhận giải sẽ là một sự đánh đồng giữa kẻ xâm lược-kẻ gây chiến (Hoa Kỳ) với người bị xâm lược-bên tự tay giành lại hòa bình cho chính mình (nhân dân Việt Nam) và sẽ chỉ nhận giải khi giải đó chỉ được trao cho mình ông do giải Nobel hòa bình phải được trao cho đại diện của bên kiến tạo hòa bình (nhân dân Việt Nam).
[6]