Hanja (
Hangul: 한자;
Hanja: 漢字;
Hán-Việt: "Hán tự") là tên gọi trong
tiếng Triều Tiên để chỉ
chữ Hán.
[1] Đặc biệt hơn, nó chỉ những chữ Hán được vay mượn từ
tiếng Trung Quốc và được sử dụng rộng rãi trong
tiếng Triều Tiên với cách phát âm của người Triều Tiên. Hanja-mal (한자말) hoặc
hanja-eo (한자어), hanmun (한문, 漢文) dùng để chỉ những chữ viết được viết theo
chữ Hán, mặc dù "hanja" đôi khi được sử dụng với nghĩa đơn giản hơn để chỉ các khái niệm khác. Vì hanja chưa bao giờ có những cải biến lớn, chúng gần như giống hoàn toàn với
chữ Hán phồn thể và
kyūjitai. Chỉ một số ít hanja được cải biến hoặc hợp nhất với tiếng Triều Tiên. Ngược lại, có nhiều chữ Hán hiện được sử dụng ở Nhật Bản, mà trong tiếng Nhật gọi là
kanji hay
Shinjitai và Trung Quốc đại lục đã được cải biến cho đơn giản hơn như
chữ Hán giản thể.Dù đến
thế kỷ 15, bảng chữ cái biểu âm
Hangul ra đời nhưng vẫn chưa được phổ biến thực sự rộng rãi một cách chính thức cho đến cuối
thế kỷ 19 đầu
thế kỷ 20. Do đó, đến tận khi ấy, phải đọc viết Hanja thành thạo mới thực sự được coi là biết chữ vì phần lớn văn chương sách vở của
Hàn Quốc được viết bằng văn viết chữ Hán, dùng Hanja làm văn tự cơ sở. Ngày nay việc biết chữ Hán vẫn rất quan trọng đối với những người muốn đọc và học cổ văn. Học Hanja cũng rất có ích trong việc thông hiểu các
từ Hán-Triều. Ngày nay, Hanja không còn được dùng để viết các từ gốc tiếng Hán nữa mà được viết bằng Hangul, còn các từ gốc Hán Hanja-eo (한자어, 漢字語) cũng hầu như chỉ viết bằng Hangul nhưng có thể có chú thích thêm bằng ký tự chữ Hán để tránh nhầm lẫn đối với những từ có cùng phát âm.