P. t. tigris P. t. corbettiP. t. jacksoniP. t. sumatraeP. t. altaicaP. t. amoyensis†
P. t. virgata†
P. t. balicaTigris striatus Severtzov,
1858Hổ, còn gọi là
cọp,
hùm,
kễnh,
khái,
ông ba mươi hay
chúa sơn lâm (
danh pháp hai phần:
Panthera tigris) là 1 loài động vật có vú thuộc
họ Mèo (Felidae), và là một trong bốn loại "
mèo lớn" thuộc chi
Panthera.
[5] Hổ là một loại
thú dữ ăn
thịt sống, chúng dễ nhận biết nhất với các sọc vằn dọc sẫm màu trên bộ lông màu đỏ cam với phần bụng dưới sáng hơn. Hổ
là động vật to lớn nhất trong họ Mèo và là động vật lớn thứ 3 trong các loài
thú ăn thịt (sau
gấu trắng và
gấu nâu). Hổ là một trong những loài động vật có biểu tượng lôi cuốn và dễ nhận biết nhất trên thế giới. Chúng nổi bật trong thần thoại và văn hóa dân gian cổ đại và tiếp tục được miêu tả trong các bộ phim và văn học hiện đại, xuất hiện trên nhiều
lá cờ,
phù hiệu áo giáp và làm
linh vật cho các đội thể thao. Hổ là
biểu tượng quốc gia của
Ấn Độ,
Bangladesh,
Malaysia và
Hàn Quốc.Phần lớn các loài hổ sống trong
rừng và
đồng cỏ (những khu vực mà khả năng
ngụy trang của chúng phù hợp nhất). Trong số các loại
mèo lớn, chỉ có hổ và
báo đốm Mỹ (jaguar) là bơi tốt, và thông thường người ta hay thấy hổ tắm trong
ao,
hồ và
sông. Hổ kém
mèo nhà và
báo hoa mai về khả năng leo trèo. Hổ đi săn đơn lẻ,
thức ăn của chúng chủ yếu là các
động vật ăn cỏ cỡ trung bình như
hươu,
nai,
lợn rừng,
trâu, v.v. Tuy nhiên chúng cũng có thể bắt các loại mồi cỡ to hay nhỏ hơn nếu hoàn cảnh cho phép. Hổ có tập tính lãnh thổ cao và nói chung là một loài săn mồi đơn độc nhưng có nhiều đặc điểm xã hội, đòi hỏi các khu vực sinh sống tiếp giáp rộng lớn, hỗ trợ các nhu cầu của nó đối với
con mồi và nuôi dưỡng con cái. Những con hổ con ở với mẹ của chúng trong khoảng hai năm, trước khi chúng trở nên tự lập và rời khỏi phạm vi nhà của mẹ chúng để tìm lãnh thổ riêng của mình. Hổ là một trong số nhiều loài
động vật ăn thịt nằm ở mắt xích cuối cùng của các
chuỗi thức ăn trong
hệ sinh thái tự nhiên. Chúng có tuổi thọ khoảng 20 năm.Hổ từng có phạm vi phân bố rộng từ vùng
Đông Anatolia thuộc
Thổ Nhĩ Kỳ ở phía tây đến lưu vực
sông Amur, và ở phía nam từ chân đồi của dãy
Himalaya đến đảo
Bali ở
quần đảo Sunda. Kể từ đầu thế kỷ 20, quần thể hổ đã mất ít nhất 93% phạm vi lịch sử của chúng và đã bị tuyệt chủng ở Tây và Trung Á, từ các đảo Java và Bali, và ở các khu vực rộng lớn ở Đông Nam, Nam Á và
Trung Quốc. Quần thể hổ ngày nay bị chia cắt, trải dài từ rừng ôn đới
Siberia đến rừng nhiệt đới và cận nhiệt đới ở
tiểu lục địa Ấn Độ và
Sumatra. Hổ được liệt kê là loài có nguy cơ tuyệt chủng trong
Sách đỏ IUCN kể từ năm 1986. Tính đến năm 2015, quần thể hổ hoang dã toàn cầu được ước tính có khoảng từ 3.062 đến 3.948 cá thể trưởng thành, giảm khoảng 100.000 (95%) so với đầu thế kỷ 20, với hầu hết các quần thể còn lại xảy ra trong các khu vực nhỏ bị cô lập với nhau. Những lý do chính cho sự suy giảm số lượng hổ bao gồm phá hủy môi trường sống, phân mảnh môi trường sống và nạn săn trộm. Hổ thường bị săn bắt để lấy
da,
xương, hay các bộ phận khác. Điều này, cùng với việc chúng thường sống ở một số nơi đông dân trên
Trái Đất, đã gây ra những xung đột đáng kể với con người.