Giải Nobel Hòa bình (
tiếng Thụy Điển và
tiếng Na Uy: Nobels fredspris) là một trong năm nhóm giải thưởng ban đầu của
Giải Nobel. Theo nguyện vọng ghi trong
di chúc của
Alfred Nobel, Giải Nobel hòa bình nên được trao "cho người đã có đóng góp to lớn trong việc đẩy mạnh tình đoàn kết giữa các
quốc gia, trong việc giải trừ hoặc hạn chế các
lực lượng vũ trang và trong việc tổ chức hay xúc tiến các hội nghị hòa bình". Có nhiều người cho rằng
Nobel đã lập ra giải thưởng này trong
di chúc như một cách đền bù cho các
chất nổ, phát minh của ông vốn được sử dụng rộng rãi trong chiến tranh như
dynamit hay
ballistite. Thực tế thì ngoại trừ ballistite, không một loại chất nổ nào của Nobel được sử dụng trong
chiến tranh khi ông còn sống
[1].Giải Nobel Hòa bình được trao hàng năm vào ngày
10 tháng 12, ngày mất của
Alfred Nobel tại thủ đô
Oslo của
Na Uy. Trong khi phần lớn các giải Nobel khác được trao tại
Thụy Điển và do một ủy ban của Thụy Điển quyết định, thì người hoặc tổ chức được xét trao giải Nobel Hòa bình sẽ được quyết định bởi
Ủy ban Giải Nobel Na Uy do
Quốc hội Na Uy lập ra. Chủ tịch hiện tại của ủy ban này, tiến sĩ
Ole Danbolt Mjøs cũng là một người từng được trao Giải Nobel Hòa bình. Sở dĩ có sự khác biệt này là vì vào thời điểm Alfred Nobel viết di chúc,
Thụy Điển và
Na Uy gần như là một
liên bang, trong đó Chính phủ Thụy Điển chịu trách nhiệm lĩnh vực đối ngoại còn Quốc hội Na Uy chịu trách nhiệm lĩnh vực đối nội. Alfred Nobel chưa bao giờ giải thích lý do tại sao ông lại chọn Na Uy là nước chịu trách nhiệm xét giải Nobel Hòa bình chứ không phải Thụy Điển [
cần dẫn nguồn], nhiều người cho rằng có lẽ Nobel muốn loại trừ việc các chính phủ nước ngoài có thể thao túng Giải Nobel Hòa bình, vì vậy ông đã chọn Quốc hội Na Uy, vốn không chịu trách nhiệm về quan hệ đối ngoại.