Friedrich Wilhelm IV (
15 tháng 10 năm
1795 –
2 tháng 1 năm
1861) là
vua nước
Phổ từ ngày
4 tháng 6 năm
1840 cho đến khi
băng hà vào ngày
2 tháng 1 năm
1861. Friedrich Wilhelm IV "có lẽ là nhà quân chủ
người Đức quan trọng nhất giữa
Friedrich Đại đế và
Wilhelm II".
[1] Phần lớn các nhà
sử học Đức thế kỷ 19 và
20, dựa trên quan điểm của thời kỳ
thống nhất nước Đức thường phê phán ông như một người tài hoa nhưng không có tính cứng rắn của một nhà chính trị, cũng như là một "
Nhà lãng mạn trên ngai vàng" ảo tưởng, lạc hậu. Các sử gia ngày nay đã nhìn nhận lại hình ảnh của Friedrich Wilhelm IV cho phù hợp với thời đại của ông, và khẳng định ông là một quân vương thành công hơn những gì mà
lịch sử thường công nhận. Bên cạnh tính cách dễ đổi ý và thất bại
chính trị của mình, Friedrich Wilhelm IV đã giữ được ngôi báu trong cơn bão
cách mạng năm
1848, đồng thời bảo tồn những cấu trúc căn bản của
chế độ quân chủ và định hình cho thể chế "nửa chuyên chế, nửa lập hiến" của nhà nước Phổ cho đến khi sụp đổ năm
1918.
[2][3]Là con trưởng của vua
Friedrich Wilhelm III, Friedrich Wilhelm đã thể hiện tính đa cảm quá lố, cùng với niềm đam mê
kiến trúc,
văn học lãng mạn và
tôn giáo của mình ngay từ khi còn niên thiếu.
Các cuộc chiến tranh giữa Phổ với
Pháp thời
Napoléon, đặc biệt là
cuộc chiến năm
1813, đã khơi dậy tinh thần dân tộc của ông với mộng tưởng chủ nghĩa lãng mạn về sự hồi phục niềm vinh quang của
đế quốc Đức thời
Trung Cổ.
[2] Thậm chí ông còn muốn thành lập một tổ chức phòng ngự chung của người Đức và sẵn sàng chấp nhận cho
Hoàng đế Áo phục ngôi
Hoàng đế La Mã Thần thánh, trong khi các vua Phổ làm Tổng chỉ huy quân đội đế chế. Về
chính trị, là người tin vào thần quyền của nhà vua, Friedrich Wilhelm kiên quyết chống đối
chủ nghĩa tự do,
dân chủ và
hiến pháp.
[4] Thay vì đó, ông chủ trương xây dựng một "nhà nước
Ki-tô giáo" đoàn kết chặt chẽ. Để đáp ứng những yêu cầu thay đổi
xã hội Phổ thời bấy giờ, sau khi lên nối đại thống vào
tháng 6 năm 1840, Friedrich Wilhelm IV đã thực hiện hàng loạt cải tổ nhằm biến đổi
nhà nước và
nhà thờ dựa trên ý tưởng về "nhà nước Ki-tô giáo" của ông (thành hiệp các Ủy ban Liên hiệp năm
1842, Cộng đồng chung
Phúc Âm năm
1846 và
Nghi viện Liên hiệp năm
1847).
[2]