Ethernet /ˈiːθərnɛt/ là một họ các công nghệ
mạng máy tính thường dùng trong các mạng
local area network (LAN),
metropolitan area network (MAN) và
wide area network (WAN).
[1] Tên Ethernet xuất phát từ khái niệm
Ête trong ngành
vật lý học.
[2][3] Nó được giới thiệu thương mại vào năm 1980 và lần đầu tiên được tiêu chuẩn hóa vào năm 1983 thành
IEEE 802.3,
[4], kể từ đó nó được chỉnh sửa để hỗ trợ
bit rate cao hơn và khoảng cách kết nối dài hơn. Theo thời gian, Ethernet đã thay thế hoàn toàn các công nghệ LAN nối dây như
token ring,
FDDI và
ARCNET.
10BASE5 Ethernet nguyên thủy dùng
cáp đồng trục (coaxial cable) làm
shared medium (phương tiện/môi trường được chia sẻ), trong khi các phiên bản Ethernet mới hơn dùng
cáp xoắn đôi (twisted pair) và các liên kết
sợi quang học trong việc kết nối với các
hub hoặc
switch. Theo quá trình phát triển, tốc độ truyền dữ liệu Ethernet đã tăng từ 2.94
megabit trên giây (Mbit/s) ban đầu
[5] lên đến tốc độ gần đây nhất là 100
gigabit trên giây (Gbit/s). Các
tiêu chuẩn Ethernet gồm nhiều phiên bản phát tín hiệu và nối dây của
tầng vật lý của
mô hình OSI khi sử dụng Ethernet.Các hệ thống giao tiếp qua Ethernet chia một dòng dữ liệu (data stream) thành các mảnh ngắn hơn gọi là các
frame. Mỗi frame gồm có địa chỉ nguồn, địa chỉ đích, và
dữ liệu kiểm tra lỗi sao cho các frame bị hư hại có thể được phát hiện và loại bỏ; thường gặp nhất là các protocol tầng cao hơn kích hoạt (trigger) việc
truyền lại các frame bị mất. Đối với
mô hình OSI, Ethernet cung cấp các dịch vụ lên đến và bao gồm
tầng liên kết dữ liệu.
[6]Từ khi được phát hành thương mại, Ethernet đã giữ lại
tính tương thích ngược (backward compatibility) khá tốt. Các đặc tính như
MAC address 48-bit và định dạng
frame Ethernet đã có ảnh hưởng lên các protocol kết nối mạng khác. Thay thế cho một số mạng LAN hiện nay là
Wi-Fi, một protocol không dây đã được tiêu chuẩn hoá thành
IEEE 802.11.
[7]