Erich Friedrich Wilhelm Ludendorff (
9 tháng 4 năm
1865 –
20 tháng 12 năm
1937) là một tướng lĩnh và
chiến lược gia
quân sự quan trọng của
Đế quốc Đức. Ông được xem là nhà lãnh đạo tiêu biểu nhất của
Đức trong
Chiến tranh thế giới thứ nhất (
1914 -
1918)
[1], trở thành vị anh hùng chiến tranh của nước Đức thời đó.
[2] Ngoài ra, ông cũng là cộng sự ban đầu của lãnh đạo
Đảng Quốc xã Adolf Hitler.
[2]Do khả năng của ông, vào năm
1894 ông được tiến cử vào
Bộ Tổng Tham mưu Đức. Song, do mâu thuẫn với phe cánh
chính trị đối lập trong
Quốc hội, Ludendorff bị loại khỏi Bộ Tổng Tham mưu và trở thành người chỉ huy một Lữ đoàn
Bộ binh ở biên giới Đức -
Pháp.
[1] Nhưng khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ vào
tháng 8 năm 1914, ông trở thành Tham mưu trưởng của Tập đoàn quân số 2. Trong
trận Liège, ông chỉ huy binh lính rệu rã của Đức tấn công và giành thắng lợi, buộc quân đội
Bỉ đầu hàng. Chiến tích đầu tiên này đã khiến ông trở thành vị anh hùng chiến tranh đầu tiên của nước Đức. Khi quân đội
Nga hoàng xâm lược vùng
Đông Phổ, Bộ Tổng Tham mưu Đức cử tướng
Paul von Hindenburg làm chỉ huy Tập đoàn quân số 8, Ludendorff trở thành Tham mưu trưởng của Hindenburg. Những kế hoạch bài bản của hai người đẵ mang lại cho quân đội của
Đức hoàng những
chiến thắng rực rỡ trong
trận Tannenberg và
trận hồ Masuren lần thứ nhất, đánh bật quân Nga khỏi Đông Phổ. Đại thắng ở Tannenberg và Masuren khiến ông được thăng lên quân hàm
Trung tướng.
[3]Sự hợp tác Ludendorff - Hindenburg được người dân Đức tán dương, và vào năm
1916, do thất bại của Đức trong
trận Verdun,
Đức hoàng đã sa thải Tổng Tham mưu trưởng
Erich von Falkenhayn và phong Thống chế Hindenburg làm Tổng Tham mưu trưởng, Ludendorff trở thành Thượng tướng Bộ binh, Phó tổng tham mưu trưởng thứ nhất. Ông thực hiện
Kế hoạch Hindenburg, tăng cường phòng vệ quân đội Đức.
[3] Sau khi Nga bị loại khỏi vòng chiến, ông áp đặt những điều khoản khắt khe với Nga trong
Hòa ước Brest-Litovsk vào
tháng 3 năm 1918.
[1] Mùa xuân năm ấy, ông cũng phát động cuộc
Tổng tấn công Mùa xuân 1918 nhằm đánh bại
khối Hiệp ước trước khi
Lực lượng Viễn chinh Mỹ đổ bộ đông đảo vào Pháp. Quân Đức giành được nhiều
thắng lợi chiến thuật vang dội
[4] gây tổn thất lớn cho phe Hiệp ước,
[3] (điển hình như
Chiến dịch Blücher[4]) nhưng không thể đạt được một
thắng lợi chiến lược nào. Quân số của
Mỹ tại Pháp gia tăng,
[4] và thất bại của quân đội Đức trong
trận sông Marne lần thứ hai dẫn tới sự xoay chuyển của cục diện chiến tranh. Ludendorff tuyệt vọng,
[3] và cảm thấy thất bại đã đến khi quân đội
Khối Thịnh vượng chung Anh chọc thủng phòng tuyến quân đội của Đức hoàng trong
trận Amiens.
[5] Khi ông đổi ý rằng cứ quyết tâm đẩy Đức vào vòng chiến, Đức hoàng buộc ông phải từ chức.
[3] Nhiều cuốn sách đã ca ngợi Ludendorff như một
thiên tài quân sự, nhưng theo tác giả người Mỹ David T. Zabecki còn xa mới lên đến cấp độ này.
[6]Sau chiến tranh, ông xuất ngoại nhưng về nước vào năm
1919.
[2] Ông căm phẫn nền
Cộng hòa Weimar và tố cáo các lực lượng "thù địch" như người
Do Thái,
chủ nghĩa Cộng sản,... đã gây ra thất bại cho Đế quốc Đức qua việc "đâm sau lưng" nước nhà. Ông trở thành một nhân vật mang tư tưởng cực hữu, nồng nhiệt tinh thần
chủ nghĩa dân tộc và còn tham gia bất thành trong vụ
đảo chính nhà hàng bia với
Adolf Hitler vào năm
1923. Đảng Quốc xã trở nên tôn vinh ông, và ông bước vào Reichstag (Quốc hội) trong năm
1924 (cho đến năm
1928). Nhưng ông càng thêm cựu hữu, căm ghét Hitler và cả các chiến hữu của ông thời chiến (như Hindenburg).
[1][3] Vào năm
1935, ông viết tác phẩm
Der Totale Krieg ("Cuộc chiến tranh tổng lực") thể hiện lập trường của ông là
chính trị phải phụng sự cho chiến tranh. Tác phẩm Một Dân tộc trong Chiến tranh (
1936) khắc họa rõ quan điểm chính trị và quân phiệt của ông
[1]. Ông qua đời tại
Bayern vào năm
1937, ít lâu trước khi từ chối thụ phong làm
Thống chế[3]; chỉ có số ít người khóc thương cho ông.
[1]