Chỉ_số_Glycemic

Chỉ số đường huyết trong thực phẩm hay chỉ số glycemic (GI) (/ɡlaɪˈsiːmɪk/;[1]) là một chỉ số từ 0 đến 100 được gán cho thực phẩm, với đường tinh khiết tùy ý cho giá trị 100, đại diện cho mức tăng tương đối của mức đường huyết sau hai giờ tiêu hoá loại thức ăn đó.[2] Chỉ số GI của một loại thực phẩm cụ thể phụ thuộc chủ yếu vào số lượng và loại carbohydrate có trong loại thực phẩm đó; nhưng cũng bị ảnh hưởng bởi số lượng các phân tử carbohydrate trong thực phẩm, hàm lượng chất béo và protein, lượng axit hữu cơ (hoặc muối của chúng) trong thực phẩm, và liệu thực phẩm đã được nấu chín chưa và nếu có, thực phẩm đã được nấu như thế nào. Bảng chỉ số GI có sẵn liệt kê nhiều loại thực phẩm với chỉ số GI của chúng.[3] Thực phẩm được coi là có chỉ số GI thấp nếu nó từ 55 trở xuống; chỉ số GI cao nếu từ 70 trở lên; và chỉ số GI trung bình nếu từ 56 đến 69.Thuật ngữ này được đưa ra vào năm 1981 bởi David J. Jenkins và các đồng nghiệp.[4] Chỉ số này tỏ ra hữu ích để định lượng tốc độ tương đối nhanh chóng mà cơ thể phân hủy carbohydrate.[3] Chỉ số GI chỉ tính đến lượng carbohydrate có sẵn (tổng lượng carbohydrate trừ đi lượng chất xơ) trong thực phẩm. Chỉ số glycemic không dự đoán phản ứng đường huyết của một cá nhân với thực phẩm, nhưng có thể được sử dụng như một công cụ để đánh giá gánh nặng phản ứng insulin của thực phẩm, được tính trung bình trên một quần thể nghiên cứu. Phản ứng của từng cá nhân khác nhau rất nhiều.[5]Chỉ số glycemic thường được áp dụng với số lượng thực phẩm và lượng carbohydrate trong thực phẩm mà thực sự được tiêu thụ. Một thước đo liên quan, tải lượng đường huyết (GL),[6] tính toán điều này bằng cách nhân chỉ số đường huyết của thực phẩm được đề cập với hàm lượng carbohydrate của khẩu phần thực tế.Một hạn chế thực tế của chỉ số glycemic là nó không đo lường lượng insulin sinh ra do lượng đường trong máu tăng lên. Kết quả là, hai loại thực phẩm có thể có cùng chỉ số đường huyết, nhưng tạo ra lượng insulin khác nhau. Tương tự như vậy, hai loại thực phẩm có thể có cùng tải lượng đường huyết, nhưng gây ra các phản ứng insulin khác nhau. Hơn nữa, cách đo chỉ số đường huyết và tải lượng đường huyết đều được xác định bởi hàm lượng carbohydrate có trong thực phẩm. Ví dụ, khi ăn bít tết, vốn không có hàm lượng carbohydrate nhưng cung cấp lượng protein cao, thì có tới 50% lượng protein đó có thể được chuyển hóa thành glucose khi tiêu thụ ít hoặc không có carbohydrate.[7] Nhưng vì bản thân nó không chứa carbohydrate nên bít tết không thể có chỉ số đường huyết. Đối với một số so sánh thực phẩm, chỉ số insulin có thể hữu ích hơn.