Chư hầu là một từ xuất phát từ
chữ Hán (諸侯), trong nghĩa hẹp của
chữ Hán dùng từ thời Tam Đại ở
Trung Quốc (gồm
nhà Hạ,
nhà Thương,
nhà Chu) để chỉ tình trạng các vua chúa của các tiểu quốc bị phụ thuộc, phải phục tùng một
vua chúa lớn mạnh hơn làm
thiên tử thống trị tối cao. Các nước nhỏ có sự thừa nhận chính thức vị thế chư hầu trước một nước lớn và được gọi là "nước chư hầu".Tại châu Âu trong chế độ phong kiến
thời trung cổ mối quan hệ chư hầu (vassal) tồn tại ở dạng các lãnh chúa địa phương tuyên thệ trung thành với vua.
[1]Sau này, chư hầu được sử dụng theo nghĩa bóng, dùng để chỉ tình trạng nước nhỏ phụ thuộc lộ liễu vào nước lớn nào đó, với mức độ phụ thuộc khác nhau, mà không có các danh xưng "chư hầu" và "minh chủ" nữa. Vào thời kỳ
chủ nghĩa tư bản ra đời và xâm chiếm thuộc địa thì quan hệ lệ thuộc được xác định ở các mức "
thuộc địa" (phụ thuộc hoàn toàn) hay "bảo hộ" (có chính quyền địa phương tồn tại nhưng không độc lập). Sau
Chiến tranh thế giới thứ hai khi hệ thống
thuộc địa tan vỡ thì xuất hiện dạng thay thế là các hiệp ước liên minh tay đôi hoặc đa quốc gia như các "khối quân sự"
NATO,
SEATO,
CENTO,
khối Warszawa,... Đó là một hiện tượng của lịch sử, các nước nhỏ gom quanh ô che của nước lớn thành nhóm để tồn tại trong thế giới có nhiều xung đột.