Chúa Nguyễn (
chữ Nôm:
主阮;
chữ Hán:
阮王 /
Nguyễn vương) là cách gọi chung trong sử sách và dân gian về một dòng họ đã cai trị dải đất từ
Thuận Hóa (phía nam
đèo Ngang hiện nay) vào
miền Nam của
Việt Nam, bắt đầu từ đầu giai đoạn
Lê Trung hưng của
nhà Hậu Lê, hay giữa
thế kỷ XVI, cho đến khi bị
nhà Tây Sơn tiêu diệt năm
1777. Các chúa Nguyễn là tổ tiên của các vua
nhà Nguyễn, 1 triều đại phong kiến cuối cùng của nước Việt Nam.Năm
1527,
Mạc Đăng Dung soán ngôi
nhà Lê và lập ra
nhà Mạc.
Nguyễn Kim (
1468–
1545), vốn là một tướng giỏi của
nhà Hậu Lê, nhờ có công giúp vua Lê chống lại
nhà Mạc nên được phong chức Thái sư Hưng Quốc công (sau này khi
nhà Nguyễn thành lập đã truy tôn ông là Triệu tổ Tĩnh hoàng đế).
Nguyễn Kim có ba người con. Con gái đầu tên Ngọc Bảo, lấy
Trịnh Kiểm, người sau này trở thành người mở đầu cho sự nghiệp của các
chúa Trịnh ở
Đàng Ngoài; hai người con trai kế của Nguyễn Kim cũng là tướng giỏi và được phong chức Quận công. Sau khi người con trai lớn là
Nguyễn Uông bị anh rể là Trịnh Kiểm giết, người con trai còn lại là
Nguyễn Hoàng đã xin vua Lê cho vào cai trị vùng đất
Thuận Hóa để rời xa sự kiểm soát của anh rể mà nhằm mưu đồ tạo dựng 1 cơ nghiệp riêng cho dòng họ Nguyễn (1558-1945), cụ thể từ 1600.Các chúa Nguyễn về danh nghĩa là quan của
Nhà Lê Trung hưng, nhận sắc phong và dùng niên hiệu của vua Lê, giúp vua Lê cai quản vùng lãnh thổ phía Nam. Nhưng trên thực tế họ cai trị lãnh thổ
Đàng Trong một cách tương đối độc lập với vua Lê. Tổng cộng có 9 chúa Nguyễn cai quản xứ
Đàng Trong trong hơn 2 thế kỷ cho tới khi bị lật đổ vào năm
1777. Tình trạng chia cắt Việt Nam thành
Đàng Trong (của
chúa Nguyễn) với
Đàng Ngoài (của các
chúa Trịnh) kéo dài suốt khoảng thời gian đó. Đến khoảng cuối
thế kỷ XVIII, chúa
Nguyễn Phúc Khoát bỏ bê chính sự, triều chính rối ren khiến lòng dân chán ghét, việc này đã tạo ra điều kiện cho
nhà Tây Sơn nổi dậy, đánh đổ cả hai tập đoàn chúa Trịnh và chúa Nguyễn, kết thúc tình trạng chia cắt của Việt Nam.