Theo Việt Nam: 100.000
(1946)[4]239.000
(1950)445.000 (gồm 146.000 quân Âu Phi và 299.000 quân các nước Đông Dương)
(1954)[5]166.000 quân chính quy
2.000.000+ du kích
(1953)[10] Quân bản xứ ở Đông Dương: 419.000 chết, bị thương, bị bắt hoặc đầu hàng
[11]Theo Việt Minh: Nửa triệu chết và bị thương.
Phá huỷ 435
máy bay, bắn chìm 603
tàu chiến và
ca nô, phá huỷ 9.283
xe quân sự, thu 255
pháo, 504
xe quân sự và 130.000 súng các loại.
[12][13]Chiến tranh Đông Dương hoặc đối với
chiến tranh Việt Nam cũng có thể gọi là
Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất là cuộc chiến diễn ra tại 3 nước
Đông Dương bao gồm
Việt Nam,
Lào và
Campuchia, giữa 1 bên là
quân viễn chinh Pháp cùng các lực lượng đồng minh bản xứ bao gồm lực lượng của
Quốc gia Việt Nam,
Vương quốc Lào,
Vương quốc Campuchia, trong
Liên hiệp Pháp, bên kia là lực lượng
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (
Việt Minh) cùng các lực lượng kháng chiến khác của
Lào (
Pathet Lào) và
Campuchia. Cuộc chiến bắt đầu chính thức từ ngày
19 tháng 12 năm
1946 khi
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lệnh
Toàn quốc kháng chiến và kết thúc chính thức ngày
20 tháng 7 năm
1954 khi
Hiệp định Geneva được ký kết. Tuy nhiên xung đột thật sự đã nổ ra từ ngày
13 tháng 9 năm
1945 khi quân Pháp theo chân quân Anh tiến vào miền nam để giải giáp quân Nhật.Đây là giai đoạn đầu tiên trong "
Cuộc kháng chiến 30 năm" của
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với mục tiêu giành độc lập cho Việt Nam (giai đoạn 2 là
cuộc chiến với Hoa Kỳ). Cuộc chiến diễn ra trên khắp Việt Nam và lan ra cả các nước láng giềng Lào và Campuchia, nhưng chiến sự chính diễn ra chủ yếu tại
miền Bắc Việt Nam. Sau 9 năm sa lầy và với thất bại tại
trận Điện Biên Phủ, Pháp buộc phải chấp nhận ký kết
Hiệp định Genève công nhận nền
độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.Cuộc
chiến tranh này ở Việt Nam còn được gọi là
Kháng chiến chống Pháp,
Kháng chiến 9 năm,
9 năm kháng chiến trường kỳ,
Thời 9 năm,
Hồi 9 năm. Các tài liệu nghiên cứu, sách báo ở nước ngoài phần lớn gọi là
Chiến tranh Việt-Pháp hoặc
Chiến tranh Đông Dương.Sau khi người
Nhật đã bại trận và mất quyền kiểm soát lãnh thổ
Liên bang Đông Dương (ngày nay là Việt Nam, Lào và Campuchia), Pháp đưa quân trở lại nhằm tái chiếm vùng này. Pháp tham gia cuộc chiến này nhằm buộc lãnh thổ Đông Dương phải tiếp tục nằm trong
Liên hiệp Pháp mới được thành lập - theo tuyên bố ngày
24 tháng 3 năm
1945 của
Chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp Charles de Gaulle và được quy định trong Hiến pháp Pháp năm
1946. Động cơ thúc đẩy
Pháp tham chiến mang tính chính trị và tâm lý hơn là kinh tế. Những người
Pháp ủng hộ cuộc chiến cho rằng nếu
Pháp để
Đông Dương giành độc lập, các quyền lợi và tài sản của
thực dân Pháp tại các thuộc địa hải ngoại sẽ nhanh chóng bị mất theo.
[18]Đa số lãnh đạo
Pháp cho rằng cuộc chiến này sẽ chỉ có quy mô lớn hơn một chút so với 1 cuộc tái chiếm thuộc địa cổ điển, theo đó quân Pháp chiếm giữ các trung tâm dân cư và mở rộng dần theo kiểu "vết dầu loang" mà họ đã thực hiện rất thành công ở
Maroc và
Algérie. Nhưng trái với dự tính này, mặc dù
Pháp chiếm ưu thế quân sự trong thời gian đầu, lực lượng
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phát triển ngày càng mạnh và kiểm soát được nhiều vùng lãnh thổ ngày càng rộng. Đến cuối cuộc chiến, Pháp đã sa lầy vào 1 cuộc chiến hao người tốn của mà không tìm ra phương cách nào để chiến thắng, trong khi
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã kiểm soát trên 75% lãnh thổ.
[18]Trong khi đó, mục tiêu của chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là giành độc lập cho dân tộc mình. Cuộc chiến giữa 1 cường quốc trên thế giới và 1 đất nước nghèo nàn lạc hậu đã diễn ra gần như lời
Hồ Chí Minh đã nói: Sau
Chiến tranh thế giới thứ hai, trên lãnh thổ của
Đế quốc Pháp đã bùng nổ nhiều phong trào đòi độc lập, nhưng thất bại mở màn gây hiệu ứng dây chuyền và thiệt hại lớn nhất cho
Pháp là cuộc kháng chiến chống
Pháp của nhân dân 3 nước
Liên bang Đông Dương. Thất bại của
Pháp đánh dấu việc
chủ nghĩa thực dân kiểu cổ điển của các nước thực dân
Châu Âu bị sụp đổ tại hàng loạt các
thuộc địa trên toàn thế giới.