Hoa Kỳ chiến thắng
1899–1902 🇯🇵1899–1902 Cộng hòa PhilippinesHõ trợ nước ngoài hạn chế:🇯🇵1902–1913 🇯🇵1902–1906 Bản mẫu:Lá cờicon image Cộng hòa Tagalog1899–1913 Bản mẫu:Country data Sulu Sultanate≈126,000 total
[3][4]Cuộc chiến tranh Philippines-Mỹ (còn gọi là
Chiến tranh Philippines,
Cuộc nổi dậy Philippines,
Cuộc nổi dậy Tagalog;
[10][11] tiếng Tagalog: Digmaang Pilipino-Amerikano,
tiếng Tây Ban Nha: Guerra Filipino-Estadounidense,
tiếng Anh: Philippine-American War) là một cuộc xung đột vũ trang giữa
Đệ nhất Cộng hòa Philippines (tiếng Tây Ban Nha: República Filipina, tiếng Tagalog: Republikang Pilipino, tiếng Anh: First Philippine Republic) và
Hoa Kỳ kéo dài từ ngày
4 tháng 2 năm
1899 đến ngày
2 tháng 7 năm
1902.
[1] Chiến tranh là sự tiếp nối của cuộc đấu tranh giành độc lập của Philippines bắt đầu năm
1896 với cuộc
Cách mạng Philippines. Cuộc xung đột nảy sinh khi Đệ nhất Cộng hòa Philippines phản đối các điều khoản của
Hiệp ước Paris, trong đó Hoa Kỳ chiếm Philippines từ
Tây Ban Nha, chấm dứt
chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ.
[12]Cuộc chiến nổ ra giữa các lực lượng của Hoa Kỳ và của Cộng hòa Philippines vào ngày
4 tháng 2 năm
1899, trong trận chiến thứ hai được gọi là
Trận đánh Manila. Vào ngày
2 tháng 6 năm
1899, Đệ nhất Cộng hòa Philippines chính thức tuyên chiến với Hoa Kỳ.
[13][14] Cuộc chiến chính thức kết thúc vào ngày
2 tháng 7 năm
1902 với một chiến thắng cho Hoa Kỳ. Tuy nhiên, một số nhóm người Philippines do các cựu chiến binh của
Katipunan dẫn đầu đã tiếp tục chiến đấu với lực lượng Mỹ trong nhiều năm. Trong số những người lãnh đạo này có tướng
Macario Sakay, một thành viên cựu chiến binh Katipunan, người nắm giữ chức vụ tổng thống của "Cộng hòa Tagalog" được thành lập năm 1902 sau khi bắt giữ
Tổng thống Emilio Aguinaldo. Các nhóm khác tiếp tục chiến đấu ở các vùng hẻo lánh và hòn đảo, bao gồm người
Moro và người
Pulahanes, cho tới khi đánh bại lần cuối của họ tại
Trận Bud Bud Bagsak vào ngày
15 tháng 6 năm
1913.Chiến tranh và sự chiếm đóng của Hoa Kỳ đã làm thay đổi cảnh quan văn hoá của các hòn đảo, vì người ta đã phải đối mặt với khoảng 200.000 đến 250.000 người Philippines bị chết,
[15][16][17][18][19][20][21][22] và việc đưa tiếng Anh vào các hòn đảo như là ngôn ngữ chính của chính phủ, giáo dục, kinh doanh, công nghiệp, và giữa các gia đình và các cá nhân được giáo dục ngày càng nhiều trong thập kỷ tới.Năm 1902,
Quốc hội Hoa Kỳ thông qua
Đạo Luật Tổ chức Philippines để thành lập
Nghị viện Philippines mà các thành viên của nghị viện sẽ được dân chúng Philippines bầu ra.
[23] Đạo luật này sau đó bị thay thế bởi
Đạo luật Tự trị Philippines vào năm
1916. Trong đạo luật này có chứa tuyên bố bằng văn bản và chính thức đầu tiên về sự cam kết của
Chính phủ Hoa Kỳ dần dần trao trả độc lập cho Philippines.
[24] Đạo luật Độc lập Philippines năm
1934 thiết lập nên
Thịnh vượng chung Philippines vào năm sau đó. Đây là một hình thức độc lập hạn chế, và thiết lập một tiến trình với kết cục là sự trao trả nền độc lập cho Philippines (ban đầu được dự tính là vào năm 1944, nhưng bị gián đoạn và trì hoãn vì
Thế chiến II). Hoa Kỳ trao trả độc lập cho Philippines vào năm
1946, sau Chiến tranh Thế giới II và
sự chiếm đóng của Nhật Bản tại Philippines bằng
Hiệp ước Manila được ký kết giữa hai chính phủ và các quốc gia.