Chiến_tranh_Cách_mạng_Mỹ
Chiến_tranh_Cách_mạng_Mỹ

Chiến_tranh_Cách_mạng_Mỹ

 Hoa Kỳ
(sau năm 1776)
Cộng hòa Vermont[2]
Đế quốc Pháp[3][4]
Đế quốc Tây Ban Nha[5]Đồng tham chiến: Cộng hòa Hà Lan[6]
Mysore[7] Hanover[9][10]Lính đánh thuê Đức:
Hesse-Kassel
Hesse-Hanau
Waldeck
Brunswick
Ansbach
Anhalt-Zerbst Thomas Chittenden
Louis XVI
Charles III
William V
Hyder Ali
Tipu Sultandanh sách đầy đủ...danh sách đầy đủ...Lục quân & Dân quân:
40,000 (trung bình)[12]
200,000 (đã phục vụ)[13]
Hải quân:
5,000 thủy thủ (đỉnh điểm năm 1779)[14]
53 tàu frigateTàu chiến nhẹ (đã phục vụ tổng cộng)[14]
Hải quân Liên bang:
106 tàu thuyền (tổng cộng)[15]
Tàu lùng:
55,000 thủy thủ (tổng cộng)[16]
1,697 tàu thuyền[17]Các đồng minh:
Quân đội:
63,000 lính Pháp và Tây Ban Nha (Gibraltar)[18][19]
Hải quân:
146 Tàu chiến tuyến (1782)[20]Đồng minh bản địa Mỹ:
Không rõQuân đội:
48,000 (đỉnh điểm)[21]
121,000 (toàn cầu 1781)[22]
7,500 (Gibraltar)[23]
Hải quân:
94 Tàu chiến tuyến (1782)[20]
104 tàu frigate (1781)[24]
37 Chiến thuyền hạng nhẹ (1781)[25]
171,000 thủy thủ[26]Trung quân:
25,000 (tổng cộng)[27]Lính Hanover:
2,365 (tổng cộng)[28]Lính đánh thuê Đức:
29,875 (tổng cộng)[29]Đồng minh bản địa Mỹ:
13,000[30]25,000–70,000 chết[12][31]
6,800 bị giết trên chiến trường
17,000 chết bởi bệnh tật[32]
Pháp:
ít nhất 7,000 chết
(2,112 tại Mỹ)[33]
19 tàu chiến tuyến (1,346 cỗ súng) bị mất[34]
30 tàu frigate (988 cỗ súng) bị mất[34]Tây Ban Nha:
5,000 chết[35]
(124 ở miền Nam Bắc Mỹ)[36]
8 tàu chiến tuyến (572 cỗ súng) bị mất[34]
11 tàu frigate (326 cỗ súng) bị mất[34]Hà Lan:
500 chết[35]Tổng cộng: 37,000–82,500+ lính chếtQuân đội:
43,633 tổng cộng chết[37]
~9,372 bị giết trên chiến trường[38]
27,000 chết bởi bệnh tật[12][39]
Hải quân:
1,243 bị giết trên chiến trường
18,500 chết bởi bệnh tật (1776–1780)[40]
42,000 đào ngũ[41]
20 tàu chiến tuyến (1,396 cỗ súng) bị mất[34]
70 tàu frigate (1,978 cỗ súng) bị mất[34]
2,200 tàu buôn (600 tàu tư nhân Mỹ) bị mất[34]
75 tàu tư nhân mất[34]Đức:
7,774 tổng cộng chết
1,800 bị giết trên chiến trường
4,888 đào ngũ[12]Phe trung thành:
7,000 tổng cộng chết
1,700 bị giết trên chiến trường
5,300 chết bởi bệnh tật (ước tính)[42]Tổng cộng: 78,200+ lính chếtChiến tranh Cách mạng Mỹ (1775 - 1783), còn được gọi là Chiến tranh giành độc lập Mỹ,[43] là một cuộc chiến vào thế kỷ 18 giữa Vương quốc AnhMười ba thuộc địa (liên minh với Pháp) tuyên bố độc lập và khai sinh Hoa Kỳ.[N 1]Sau năm 1765, sự khác biệt về mặt tư tưởng và chính trị ngày càng sâu sắc làm căng thẳng mối quan hệ giữa Vương quốc Anh và các thuộc địa của nó. Các cuộc biểu tình của phái yêu nước chống lại việc đánh thuế mà không có đại diện theo Đạo luật Tem và leo thang thành các vụ tẩy chay hàng hóa Anh, lên đến đỉnh điểm vào năm 1773 với vụ việc nhóm Những đưa con của Tự do phá hủy một lô hàng trà tại Cảng Boston. Anh đáp trả bằng cách đóng cửa Cảng Boston và thông qua một loạt các biện pháp trừng phạt chống lại Thuộc địa Vịnh Massachusetts. Nhân dân Massachusetts đề ra nghị quyết Suffolk, và thành lập một chính phủ bí mật nhằm giành quyền kiểm soát vùng nông thôn khỏi tay của Hoàng gia Anh. Mười hai thuộc địa đã thành lập ra Đại hội lục địa để phối hợp kháng chiến, tạo ra các Ủy ban và công ước nắm quyền lực một cách hiệu quả.[44]Những nỗ lực của Anh nhằm giải giáp lực lượng dân quân Massachusetts tại Concord đã dẫn đến một cuộc chiến mở vào ngày 19 tháng 4 năm 1775. Lực lượng dân quân sau đó bao vây Boston, buộc Anh phải di tản vào tháng 3 năm 1776 và Quốc hội đã chỉ định George Washington chỉ huy Quân đội Lục địa. Cùng lúc đó, người Mỹ thất bại trong nỗ lực xâm chiếm Quebec và lan rộng cuộc nổi dậy chống lại người Anh. Vào ngày 2 tháng 7 năm 1776, Đại hội lục địa lần thứ hai đã bỏ phiếu giành độc lập, đưa ra tuyên bố vào ngày 4 tháng 7. Ngài William Howe đã phát động một cuộc phản công của Anh, chiếm lại New York và bẻ gãy ý chí của Mỹ. Tuy nhiên, chiến thắng tại Trenton và Princeton đã khôi phục niềm tin của người Mỹ. Năm 1777, người Anh đã phát động một cuộc xâm lược từ Quebec bởi tướng John Burgoyne, với ý định cô lập các thuộc địa New England. Thay vì hỗ trợ nỗ lực này, Howe đã dẫn dắt quân đội của ông với một chiến dịch riêng chống lại bang Philadelphia và Burgoyne đã bị thảm bại hoàn toàn tại trận Saratoga vào tháng 10 năm 1777.Thất bại của Burgoyne có hậu quả đáng kể. Pháp chính thức liên minh với người Mỹ và tham chiến vào năm 1778, và Tây Ban Nha cũng nhảy vào với tư cách là đồng minh của Pháp nhưng không phải là đồng minh của Hoa Kỳ vào năm sau đó. Năm 1780, Vương quốc Mysore tấn công người Anh ở Ấn Độ, và căng thẳng giữa Anh và Hà Lan nổ ra thành một cuộc chiến toàn diện. Ở Bắc Mỹ, người Anh thực hiện "chiến lược miền Nam" do Charles Cornwallis lãnh đạo, nơi đây có một cuộc nổi dậy của phe Trung quân ủng hộ Hoàng gia, nhưng chỉ một số ít người xung phong. Cornwallis bị phản công tại Trận Núi VuaTrận Cowpens. Ông buộc phải rút lui về Yorktown, Virginia, với dự định để sơ tán, nhưng một chiến thắng hải quân quyết định của Pháp đã không cho ông ta trốn thoát. Liên quân Pháp-Mỹ do Comte de Rochambeau và Washington lãnh đạo sau đó đã bao vây quân đội của Cornwallis và, không có dấu hiệu cứu trợ, Cornwallis chịu hàng vào tháng 10 năm 1781.Đảng Whig của Anh từ lâu đã phản đối Đảng Tory ủng hộ chiến tranh trong Quốc hội, và sự đầu hàng này đã giúp họ chiếm thế thượng phong. Đầu năm 1782, Nghị viện đã bỏ phiếu chấm dứt mọi hoạt động quân sự ở Mỹ, nhưng cuộc chiến vẫn tiếp diễn ở các nước hải ngoài. Anh vẫn bị bao vây ở Gibraltar nhưng đã giành được một chiến thắng vang dội trước hải quân Pháp. Vào ngày 3 tháng 9 năm 1783, các bên chủ chiến đã ký Hòa ước Paris, trong đó Vương quốc Anh đồng ý công nhận chủ quyền của Hoa Kỳ và chính thức chấm dứt chiến tranh. Sự tham chiến của Pháp mang tính quyết định,[45] nhưng Pháp lại kiếm được ít bổng lộc từ cuộc chiến này, không chỉ vậy mà còn phát sinh các khoản nợ ngập đầu. Tây Ban Nha đạt được một số lợi ích về lãnh thổ nhưng thất bại trong mục tiêu chính là phục hồi Gibraltar.[46] Người Hà Lan bị đánh bại trên mọi phương diện và bị buộc phải nhượng lại lãnh thổ cho Vương quốc Anh. Ở Ấn Độ, cuộc chiến chống lại Mysore và các đồng minh đã kết thúc vào năm 1784 với Hiệp ước Mangalore mà không có bất kỳ thay đổi lãnh thổ nào.

Chiến_tranh_Cách_mạng_Mỹ

Thời gian 19 tháng Tư, 1775 – 3 tháng Chín, 1783
(8 năm, 4 tháng và 15 ngày)
Phê chuẩn có hiệu lực: 12 tháng Năm, 1784
(9 năm và 23 ngày)
Địa điểm Phía Đông Bắc Mỹ, Biển Caribê, Tiểu lục địa Ấn Độ, Châu Phi, Đại Tây Dương, và Ấn Độ Dương
Kết quả Chiến thắng của phe Đồng Minh:
Thay đổi lãnh thổ * Vương quốc Anh nhượng khu vực phía đông của Sông Mississippi và phía nam của Ngũ Đại HồSông St. Lawrence cho Hoa Kỳ
Thời gianĐịa điểmKết quảThay đổi lãnh thổ
Thời gian19 tháng Tư, 1775 – 3 tháng Chín, 1783
(8 năm, 4 tháng và 15 ngày)
Phê chuẩn có hiệu lực: 12 tháng Năm, 1784
(9 năm và 23 ngày)
Địa điểmPhía Đông Bắc Mỹ, Biển Caribê, Tiểu lục địa Ấn Độ, Châu Phi, Đại Tây Dương, và Ấn Độ Dương
Kết quảChiến thắng của phe Đồng Minh:
Thay đổi lãnh thổ* Vương quốc Anh nhượng khu vực phía đông của Sông Mississippi và phía nam của Ngũ Đại HồSông St. Lawrence cho Hoa Kỳ

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_Cách_mạng_Mỹ http://allthingsliberty.com/2013/09/the-gunpowder-... http://www.americanheritage.com/content/patriots-o... http://www.historynet.com/americas-spanish-savior-... http://necrometrics.com/wars18c.htm http://necrometrics.com/wars18c.htm#AmRev http://orbat.com/site/uk_orbats/files/6/The%20Brit... http://www.thecajuns.com/galvezrw.htm http://totallyhistory.com/red-coats/ http://www2.census.gov/prod2/statcomp/documents/CT... http://www.nps.gov/spar/historyculture/french-fiel...