Cá giáp (
danh pháp khoa học:
Ostracodermi, nghĩa là "bọc da giáp, bọc da vỏ") là tên gọi chung để chỉ bất kỳ nhóm
cá không hàm, nguyên thủy, đã
tuyệt chủng với một số phần nào đó của cơ thể được che phủ bằng một lớp giáp có cấu tạo từ chất xương. Chúng thuộc về đơn vị phân loại được gọi là Ostracodermi, và các
hóa thạch của chúng được tìm thấy trong các
địa tầng của thời kỳ
kỷ Ordovic và
kỷ Devon ở
Bắc Mỹ và
châu Âu. Nói chung chúng thường dài không quá 30 cm (1 ft) và có lẽ là các loài động vật ăn đáy, bơi chậm
[1].Một trong các cải tiến của cá giáp là việc chúng sử dụng mang không phải để kiếm ăn mà chỉ phục vụ cho hô hấp. Ở các dạng sự sống trước đó, nếu chúng có mang thì các mang này được sử dụng cho cả hô hấp lẫn kiếm ăn. Chúng có các túi
mang hầu tách biệt dọc theo hai bên đầu, mở thường xuyên nhưng không có
nắp mang. Không giống như
động vật không xương sống sử dụng chuyển động của các
mao để di chuyển thức ăn, cá giáp sử dụng các túi mang nhiều cơ của chúng để tạo ra sức hút nhằm lôi kéo các con mồi nhỏ và chuyển động chậm vào miệng chúng.Cá giáp tồn tại dưới hai dạng chính, dạng thứ nhất nguyên thủy hơn gọi là
Heterostraci (cá vảy lạ) và
Cephalaspidomorphi (cá giáp đầu). Cá giáp đầu hoàn thiện hơn cá vảy lạ do chúng có các cơ quan ổn định bên hông giúp cho chúng kiểm soát tốt hơn sự cân bằng của cơ thể khi bơi.Sau khi có sự xuất hiện của cá có hàm (
Placodermi,
Acanthodii, cá mập v.v.) khoảng 400 triệu năm trước, phần lớn các loài cá giáp bắt đầu suy giảm và các loài cá giáp cuối cùng đã tuyệt chủng hoàn toàn vào cuối kỷ Devon.Phân lớp Ostracodermi đã từng được đặt vào trong siêu lớp
Agnatha (cá không hàm) cùng với phân lớp còn sinh tồn là
Cyclostomata (đa ngành, chứa các loài
cá mút đá và
cá mút đá myxin). Thuật ngữ này ngày nay ít xuất hiện trong phân loại do tính
cận ngành hay
đa ngành của nó. Tuy nhiên, "Ostracodermi" vẫn còn được sử dụng không chính thức như là thuật ngữ để chỉ các dạng cá giáp không hàm trong
đại Cổ sinh.