Karl Wilhelm Friedrich August Leopold Graf von Werder (
12 tháng 9 năm
1808 –
12 tháng 9 năm
1888) là một quý tộc và tướng lĩnh
quân sự có tên tuổi của
Phổ, ông đã đóng một vai trò trong việc thành lập
Đế quốc Đức.
[1]Werder sinh ra tại Schloßberg gần
Norkitten ở
tỉnh Đông Phổ, trong một gia đình quý tộc đã định cử ở vùng đất Wenden cổ giữa các
sông Elbe và
Havel kể
từ thế kỷ 14. Khi Werder chào đời, một
trung đoàn long kỵ binh Phổ trong đó cha ông là
Đại úy đang trú ẩn ở Đông Phổ sau thất bại trong
Chiến tranh Liên minh thứ tư.
[1][2] Ông đã gia nhập
Quân đoàn Vệ binh năm
1825, và năm sau ông được chuyển sang lực lượng
Bộ binh Cận vệ. Trong vòng nhiều năm liền, ông đã phục vụ như một
trung úy của Bộ binh Cận vệ. Vào năm
1839, ông được bổ nhiệm làm giảng viên của đội
thiếu sinh quân, và về sau ông được triển khai trong cục đo đạc và bản đồ của Bộ Tổng tham mưu. Trong các năm
1842 –
1843, ông đã tham gia trong các chiến dịch của quân đội
Nga hoàng tài vùng
Kavkaz, và khi trở về
Đức vào năm
1846, ông được phong hàm
Đại úy trong một ban tham mưu. Năm
1848, ông kết hôn. Sau đó, có lúc ông làm nhiệm vụ trong
trung đoàn, mà cũng có lúc ông làm nhiệm vụ trong ban tham mưu, cho đến khi được phong hàm
Thiếu tướng vào năm
1863, và trở thành
tư lệnh của một
tiểu đoàn bộ binh Cận vệ.
[2]Sau khi cuộc
Chiến tranh Áo-Phổ bùng nổ năm
1866, Werder chỉ huy
Sư đoàn Bộ binh số 3, và đóng một vai trò đáng kể trong
chiến thắng của
quân đội tại
Gitschin, buộc
quân đoàn Áo dưới quyền tướng Eingelheini phải rút lui. Trong
trận Königgrätz, đơn vị của ông một lần nữa lập nên chiến công hiển hách, trụ vững trước một trận công
pháo khốc liệt của quân đội
Áo Habsburg.
[1] Ông trở về nước với quân hàm
Trung tướng và được tặng thưởng Huân chương Quân công (
Pour le Mérite) vì những đóng góp của mình trong chiến dịch.
[1][2] Ông được đưa đến
Stettin trong thời gian hòa bình, với tư cách là chỉ huy Sư đoàn số 3. Khi
Chiến tranh Pháp-Phổ bùng nổ vào năm
1870, ông được triển khai trong ban tham mưu của
Thái tử Friedrich Wilhelm, người chỉ huy của
Tập đoàn quân số 3. Ông chỉ huy một
quân đoàn hỗn hợp của
Württemberg và
Baden trong
trận Wœrth. Sau khi tướng
Gustav von Beyer, người được giao trọng trách đánh chiếm
Strasbourg, lâm bệnh, tướng Werder được cử làm tư lệnh của đội quân Đức hội tụ ở phía trước Strasbourg, với quân số lên tới 5 vạn người đến từ
Phổ,
Bayern,
Baden, … Vào ngày
27 tháng 9 năm 1870,
sau một cuộc vây hãm kéo dài 6 tuần, Strasbourg bị buộc phải đầu hàng, và Trung tướng Werder được thăng cấp
Thượng tướng Bộ binh.
[1]Sau
chiến thắng tại Strasbourg, Werder trở thành tư lệnh của
Quân đoàn XIV mới được thành lập. Vào ngày
6 tháng 10 năm 1870, Ông đã đánh tan tác Tập đoàn quân phía Bắc của
Pháp dưới quyền tướng Cambriel trong
trận Etival (bất chấp ưu thế về quân số của
Pháp theo một số tài liệu), gây cho
quân đội Pháp nhiều thiệt hại.
[3] Đến ngày
22 tháng 10, ông giành
chiến thắng vang dội trước Cambriel trong
trận Ognon, đẩy các lực lượng của ông này vào trình trạng hỗn loạn
[1]. Sau đó, Werder tiến quân về phía tây, đánh một đạo quân Pháp thiệt hại nặng trong
trận Gray, buộc quân Pháp phải bỏ chạy.
[4] Ông phái tướng Beyer tiến đánh và
chiếm được Dijon vào ngày
30 tháng 10. Cuối
tháng 11, Werder đã đánh tan một đợt tấn công của Tập đoàn quân Vosges tình nguyện cho Pháp do
Giuseppe Garibaldi chỉ huy vào
Dijon, và truy kích đối phương đến
Auton. Từ Dijon, Werder đã phái tướng
von der Goltz kéo một
quân đoàn nhỏ đến
Langres và đánh bại quân Pháp trong trận
giao tranh tại Longeau. Tuy nhiên, do tình hình khó khăn, Werder đã quyết định từ bỏ Dijon.
[1][5]Vào ngày
18 tháng 12, cuộc tấn công của một quân đoàn mới của Pháp do tướng Cremer chỉ huy bị đập tan trong
trận Nuits.
[1] Khi tướng
Charles Denis Bourbaki chỉ huy một tập đoàn quân Pháp tiến hành giải vây cho
Belfort, tướng Werder đã tiến đánh Bourbaki và giao chiến với viên tướng Pháp trong
trận Villersexel tàn khốc, và trận chiến đã tạo điều kiện cho ông yểm trợ cho các đạo quân
Đức đang vây hãm Belfort. Trong các ngày
15,
16 và
17 tháng 1 năm
1871, Werder với bất lợi lớn về quân số đã bẻ gãy các cuộc tấn công của Bourbaki trong
trận sông Lisaine, buộc Bourbaki phải triệt binh với ý định giải vây Belfort đã bất thành. Thắng lợi này đã khiến cho người miền Nam Đức vô cùng phấn khởi
[1][2], và
vua Wilhelm I của Phổ trong thư gửi cho Werder đã ghi nhận: "Tướng Werder, – cuộc phòng ngự anh dũng thắng lợi của ông ở vị trí của mình trong 3 ngày, đằng sau một pháo đài đang bị vây hãm, là một trong những chiến tích vĩ đại nhất trong suốt
lịch sử". Nhà vua cũng trao cho ông Đại Thập tự của Huân chương Đại bàng đỏ cùng với một thanh gươm do chiến thắng này.
[6]Sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, Werder chỉ huy các lực lượng Baden, giờ đây là Quân đoàn XIV của
Đế quốc Đức, cho đến khi ông về hưu vào năm
1879. Khi về phép, ông được phong làm
Bá tước. Ông qua đời năm
1888 tại
Grüssow ở
Pommern.
Trung đoàn Bộ vinh số 30 (Rhein số 4) đã được đặt theo tên ông, và một bức tượng Werder được dựng lên tại
Freiburg im
Breisgau.
[2]